Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 6, 2021

GRASSMANNIAN

Hình ảnh
  GRASSMANNIAN Giới thiệu  GRASSMANNIAN 85B Ta có thể hiểu quá trình biến một bài toán tán xạ lượng tử thành một bài toán hình học (amplituhedron ) như sau: Tán xạ lượng tử  --> công thức đệ quy   BCFW (recursion relations Ruth Britto, Freddy Cachazo, Bo Feng, Edward Witten) -->  twistor --> grassmannian --> grassmannian dương  --> amplituhedron  hình học . GRASSMANNIAN  là gì ? Tọa độ Plucker   Arkani-Hamed-Bourjaily-Cachazo-Goncharov-Postnikov-Trnka) chứng minh rằng lý thuyết Grasmannian dương có thể dùng trong các biên độ tán xạ. Grasmannian được đặt theo tên của Hermann Grassmann, cha đẻ của đại số tuyến tính. Hồi quy Amplituhedron Hình dáng của amplituhedron giống như một viên ngọc  có nhiều mặt trong không gian nhiều chiều.Trong thể tích của viên ngọc này được tích lũy mã hóa những đặc trưng cơ bản của “ biên độ tán xạ-scattering amplitudes “-tức xác suất khi một số hạt va chạm biến thành nhiều hạt khác sau va chạm. Một tiến bộ lớn là việc tìm ra các hệ thức đệ quy

XOẮN TỬ (TWISTOR)

Hình ảnh
     Giới thiệu LÝ THUYẾT XOẮN TỬ (TWISTOR THEORY) 84B Lý thuyết xoắn tử được sáng chế bởi nhà toán học xuất sắc Roge Penrose .Ý tưởng chính của lý thuyết xoắn tử là tìm cách mô tả thực tại không phải bằng không thời gian continium thông thường mà bằng một đối tượng mà Penrose cho là cơ bản hơn :twistor (1960) Lý thuyết twistor không được chú ý trong một thời gian vì khó về mặt toán  học  nay sống lại một mặt nhờ việc áp dụng lý thuyết đó vào amplituhedron vào cosmic triangles ,mặt khác nhờ công trình của Edwward Witten nối liền lý thuyết twistor với LTD (Lý thuyết dây) Twistor là một loại spin trong không gian xoắn tử .  Penrose cho rằng sử dụng một bức tranh continium là không phù hợp [1] với thực tại có kích thước từ kích thước Planck 10 ^-33 cm đến kích thước các hạt cơ bản .Penrose cho rằng không thời gian sẽ đột sinh từ các tương tác lượng tử . Cần  sử dụng  một cơ sở gián đoạn (thay vì không thời gian liên tục) với các block cơ sở là spinor . Các block này liên kết để tạo thành

HẠT LÀ GÌ (WHAT IS A PARTICLE?)

Hình ảnh
   HẠT LÀ GÌ ? (WHAT IS A PARTICLE ?) 83B Hình dung hạt cơ bản hiện nay rất đa chiều.Sau đây là những quan điểm về hạt cơ bản [1]. Đơn giản là hình dung hạt như một chất điểm , song vấn đề không đơn giản như vậy.Thế nào là một hạt : Wen phát biểu rằng đó là một câu hỏi lý thú . HẠT LÀ SỰ CO CỦA HÀM SÓNG ‘Collapsed Wave Function’1       Hai hình vẽ trên đây mô tả hàm sóng trước và sau phép co ( collapse) Khi chưa co lại hàm sóng trải rộng trong không gian như thế hạt có một vị trí bất kỳ song khi dùng detector để ghi đo thì hàm sóng co lại và hạt có vị trí nhất định. HẠT LÀ KÍCH THÍCH LƯỢNG TỬ CỦA TRƯỜNG (QUANTUM EXCITATION)   Trong LTT người ta lượng tử hóa các trường và trường dao động theo tập một số quanta.   Helen Quinn đã đưa trường axion theo quan điểm hạt là kích thích lượng tử của trường. HẠT LÀ BIỂU DIỄN BẤT KHẢ QUY (IRREDUCIBLE REPRESENTATION) CỦA MỘT NHÓM ĐỐI XỨNG   Để hiểu thế nào là nhóm và các biến đổi của nhóm ta xét ví dụ nhóm tam giác  với những biến đổi đối xứng mô tả

BIÊN ĐỘ MẶT (AMPLITUHEDRON)

Hình ảnh
   CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐÃ PHÁT HIỆN MỘT VIÊN NGỌC TRONG LÒNG VẬT LÝ LƯỢNG TỬ (Scientists Discover a Jewel (đá quý) at the Heart of Quantum Physics) 82B Viên đá quý (nhiều mặt) đó là một đối tượng hình học nhiều chiều có tên là Amplituhedron (amplitude=biên độ , hậu tố -hedron =mặt,face ví dụ hexahedron có  nghĩa là khối 6 mặt). Sau đây amplituhedron được dịch là Biên độ mặt . Biên độ mặt có thể xác định hình dung của vật lý tương lai (theo tạp chí Discover magazine). Biên độ mặt giúp giản ước nhiều phép tính và có thể làm nên cuộc cách mạng vật lý [1] & [2]. Những kiến thức cần thiết (prerequisite knowledge):Grassmannian & twistor theory.Điều kiện này làm cho bài viết trở nên khó đọc.       Illustration by Andy Gilmore/www.breedlondon.com                                         Hình 1.Hình ảnh của một amplituhedron (Biên độ mặt)    Viên ngọc đây là một đối tượng hình học có khả năng giúp giản ước các tính toán về tương tác các hạt. Và điều này dẫn đến ý tưởng rằng những sự cố tro

KHÔNG THỜI GIAN ĐƯỢC DỆT BẰNG CÁC LIÊN ĐỚI

Hình ảnh
  KHÔNG THỜI GIAN ĐƯỢC  DỆT NÊN BỞI CÁC LIÊN ĐỚI  (SPACE-TIME MADE OF ENTANGLEMENT) 81B Nhà vật lý Swingle đưa ra câu hỏi không thời gian làm bằng gì?Tưởng chừng câu hỏi không có ý nghĩa song bây giờ các nhà vật lý đã tìm được ý nghĩa sâu sắc của câu hỏi này ! Và câu trả lời là một điều mà chúng ta bây giờ có thể hiểu được : không thời gian làm bằng những liên đới. Bài viết này nhằm mục đích tường giải vấn đề :không thời gian làm bằng những liên đới -->những tài liệu tham khảo là [1],[2],[3],[4]. Đây là dự án của các nhà vật lý có tên là IfQ (It from qubit-Không thời gian từ Qubit, ở đây chữ It chỉ không thời gian). Dự án này nhằm mục tiêu chỉ tỏ rằng không thời gian và hấp dẫn như những đối tượng đột sinh từ vũ trụ cấu tạo nên bởi thông tin ( information).  1 / Liên đới lượng tử  Từ liên đới (lượng tử )- tiếng Anh là ( quantum) entanglement , nhiều tác giả khác dùng từ rối  hay vướng víu (lượng tử). Hai hạt được gọi là liên đới nếu hàm sóng của chúng không thể viết thành tích trực

LƯỢNG TỬ HÓA BIẾN DẠNG

Hình ảnh
      Giới thiệu  DEFORMATION QUANTIZATION ( Lượng tử hóa biến dạng) 80B Quá trình từ vật lý cổ điển sang vật lý lượng tử đã trải qua nhiều thí nghiệm nhiều trang cãi ( Planck, Einstein, Bohr, Louis de Broglie, Schrodinger,Heisenberg).Song quá trình đó người ta có thể vượt qua nhờ toán học. Đây là một điều lý thú càng làm cho người ta hiểu thêm về bản chất lý thuyết lượng tử từ toán học và dường như toán học có khả năng phản ánh thực tế khách quan nhiều hơn chúng ta tưởng. Lý thuyết suy cố điển --> lượng tử gọi là  Biến dạng Lượng tử hóa (Deformation quantization ). Như vậy Cơ học lượng tử là một biến dạng của cơ học cổ điển và điều này nằm tiểm ẩn trong toán học mà bây giờ các nhà vật lý và toán học đã phát hiện. Được tham chiếu nhiều nhất là công trình của các tác giả Bayen, F., Flato, M., Fronsdal, C., Lichnerowicz, A., Sternheimer, D.[1]. Như vậy những cấu trúc (đối xứng, trạng thái,…) đã biến dạng từ cấu trúc ban đầu thành cấu trúc mới và khi thông số mới (như hằng số Planck) t