QCA (QUANTUM CELLULAR AUTOMATON)
Tế
bào autômát lượng tử - QCA
Liệu vũ trụ có phải là một máy tính lượng tử khổng lồ hay không ? Có thể
đúng như vậy: đây là quan điểm hiện nay
của một số nhà khoa học uy tín trên thế giới như Seth Lloyd ( Massachusetts Institute
of Technology, Mỹ) và Lee Smolin (Institut Perimeter, Canada).Công cụ để
mô tả vũ trụ dưới quan điểm đó là QCA (Quantum cellular Automaton-Tế bào autômát
lượng tử). Trước đây Stephen Wolfram năm 2002 đã công bố lý thuyết về CA
(Cellular Automaton-Tế bào autômát). Song lý thuyết này chưa thể mô tả đầy đủ
vũ trụ được vì CA không bao gồm lý thuyết lượng tử. Có thể nói QCA là kết quả
của việc “lượng tử hóa” CA và là một
hướng đi triển vọng nhằm tìm ra một lý thuyết thống nhất tối hậu cho vật lý.
*
Lý thuyết tế bào autômát
CA của Stephen Wolfram
(Một
loại hình khoa học mới
NKS: 256 quy tắc để hiểu
toàn bộ thế giới
thực tại )
Một hiện tượng đã không ngớt gây sự chú ý và nhiều tranh cãi trong giới
khoa học là sự xuất hiện cuốn sách : Một loại hình khoa học mới ( A
New Kind of Science –viết tắt là NKS ) của Stephen Wolfram vào năm 2002, xem hình1.
Tác giả Wolfram cho rằng mọi hiện tượng trong vạn vật từ vũ trụ đến thị trường
chứng khoán đều có thể quy về những chương trình tin học đơn giản và mọi hiện
tượng phức tạp đều là kết quả phát triển của những
tế bào ban đầu gọi là các tế bào autômát (viết tắt là CA-Cellular automaton).
Hình 1 . Stephen Wolfram và cuốn sách đồ sộ
dày 1280 trang: Một loại hình khoa học mới (NKS)
Stephen Wolfram là một nhà khoa học
xuất sắc, nghiên cứu nhiều lĩnh vực (vật lý các hạt cơ bản, vũ trụ, toán học,
tin học,...), tác giả của Mathematica,
một phần mềm nổi tiếng được sử dụng trên toàn thế giới. Wolfram sáng lập tập
đoàn phần mềm hàng đầu Wolfram Research,Tnc. Có trên 2 triệu
người sử dụng Mathematica, nhiều
phiên bản mới của Mathematica liên tục bảo đảm cuộc sống của hơn 300 người trong công
ty Wolfram Research,Tn.
Wolfram nhiều năm suy nghĩ về một
câu hỏi lớn: mọi cấu trúc phức hợp
và đa dạng trong thế giới thực tại đã
hình thành như thế nào? Liệu thiên nhiên có sử dụng một số quy tắc nào
trong khi sáng tạo ra mọi vật, liệu có một khoa học lý thuyết nào để mô tả
những quy tắc này? .Trong thời gian
sau này Wolfram rời quản lý công ty để
chuyên nghiên cứu CA và năm 2002
công bố cuốn sách Một loại hình khoa học mới (A New Kind of Science viết tắt là NKS )[1] (dày
1280 trang); cuốn sách sớm trở thành hiện tượng trong giới khoa học (hình 1). Khi nói đến cuốn sách này người
ta không thể không nói đến quyển Mathematica
, cơ sở tính toán cho NKS.
Wolfram tin rằng tồn tại một chương
trình rất đơn giản, nếu chạy trong một thời gian rất dài sẽ dẫn đến mọi phức hợp (complexity) trong vũ trụ: các sao, mặt trời, khí hậu, các sinh vật, các
dòng chảy của chất lỏng, thị trường chứng khoán,...Và chương trình đó chính là lý
thuyết tối hậu của vật lý.
Vũ trụ là một máy tính khổng lồ . Số
phép tính mà vũ trụ thực hiện trong suốt lịch sử có thể lên đến 10 120 trên
lượng thông tin bằng 10 90 bit . Vũ trụ tính điều gì? Vũ trụ tính
quá trình tiến triển động học của chính mình!
Trong lý thuyết CA của mình, Wolfram
muốn chứng minh rằng với những quy tắc đơn giản chúng ta có thể thu được những
hình thái rất phức tạp. Gregory Chaitin , một nhà toán học lớn đã phát biểu một
cách ngưỡng mộ : Stephen Wolfram muốn
phát hiện những viên gạch đầu tiên mà Chúa đã
đặt xuống để xây dựng vũ trụ.
Tế bào autômát
(CA) cơ bản
Tế bào autômát là đơn vị
nằm trong một ô mạng gián đoạn sử dụng cho tính toán. CA cơ bản có một chiều (dimension), mỗi tế bào có 2
trạng thái: 1 & 0 hay đen & trắng, mỗi tế bào có 2 tế bào lân cận nằm
hai bên. Sở dĩ các tế bào này được gọi là autômát vì chúng tự động phát triển
trong thời gian theo những quy tắc nhất định.
Như vậy với các CA cơ bản ta có một
tập gồm 3 tế bào vậy có 2 3 = 8 cấu hình cho một tập như thế. Trên
hình 2 là 8 cấu hình của các tập 3 tế
bào (ở hàng một ta dùng số 1 & 0 để chỉ trạng thái, ở hàng dưới ta dùng màu
đen & trắng để chỉ trạng thái):
Hình 2. Trên hình ta có 8 cấu hình
của tập 3 tế bào
Sự phát triển của CA theo thời gian
Lấy một tế bào đen trên hàng thứ
nhất. Trên hàng thứ hai (ứng với thời điểm tiếp theo, như thế không gian và
thời gian quyện với nhau) ta lấy thêm một tế bào bên trái, vậy ta có hai tế
bào, chúng có màu đen hay màu trắng? Trạng
thái mới của tế bào phụ thuộc vào trạng thái trước của nó và của hai tế bào lân
cận. Ta phải lấy một quy tắc nào đó để gán màu cho chúng.
Sau đây ta dùng quy tắc gọi là quy tắc 110
biểu diễn ở hình 3. (vì sao gọi là quy tắc 110, xin xem chú thích [2]).
Hình 3.
Quy tắc110,trạng thái biểu diễn bằng màu: đen (ứng với số1)& trắng (ứng với
số 0).
Màu của tế bào nằm ở hàng tiếp theo tùy thuộc vào các
màu của 3 tế bào nằm đúng trên nó một hàng (tế bào nằm dưới ở ngay vị trí giữa
của 3 tế bào nằm trên). Theo quy tắc nêu ở hình 3: ví dụ 3 tế bào nằm trên có
cấu hình 111 thì tế bào nằm dưới sẽ là tế bào 0 tức là tế bào trắng, nếu trên
có cấu hình 110 thì tế bào dưới sẽ là tế bào đen và v.v. ...
Ta có thể biểu diễn quy tắc 110
tường minh hơn như sau (xem hình 4 )
Hình 4 . Quy tắc 110
Sau 10 lần lặp (lấy liên tiếp 10
hàng) ta có hình 5a , sau 700 lần lặp ta có hình 5b.
Hình 5 .
Kết quả áp dụng 110 sau 10 lần và 700 lần lặp
Sau đây là một số hình thái thu đươc
nhờ sử dụng CA (hình 6).
Hình 6 .CA tái tạo một nhánh cây, CA mô tả tương
tác của các hạt cơ bản(b), CA trong 3D (3 chiều) tạo nên bởi CA trong 2D phát
triển trong thời gian.
Sau nhiều
lần lặp với nhiều quy tắc khác nhau người
ta thu được nhiều hình thái mô tả nhiều
đối tượng phức hợp trong vũ trụ.
Có bao nhiêu quy tắc như quy tắc 110
mà chúng ta nói trên đây? Vì mỗi tế bào có hai trạng thái cho nên đối với một tập 8
tế bào (xem hàng thứ hai ở hình 2) số cấu hình khác nhau sẽ cho ta số quy tắc
bằng: 2 8 = 256
quy tắc.
Wolfram cho
rằng sử dụng 256 quy tắc cho sự phát triển của CA, chúng ta có thể tái tạo
mọi sự
phức hợp (complexity) trong vạn vật. Trong 256 quy tắc đó, quy tắc 110 (và quy
tắc 30 ) là lý thú nhất.
Trong những năm 70 Fredkin đã đưa ra ý tưởng vũ trụ chúng
ta là một CA (Cellular automaton-tế bào autômát) và cho rằng các đại
lượng vật lý được xem là những bó thông tin nằm trong CA.
Sự ứng dụng CA bao trùm nhiều lĩnh vực: phép tính song
song, sự sống nhân tạo (artificial life), xử lý và tạo hình ảnh, mô hình các hệ
sinh học, mô phỏng trong hóa học, trong vật lý, chảy cuộn xoáy (turbulence), đồ
họa và nghệ thuật...
Cơ học lượng tử và các cổng
Lý thuyết tế bào autômát của Wolfram là lý
thuyết cổ điển . Trong lý thuyết của Wolfram các tế bào autômát là những máy tính đơn giản chứa dữ liệu trên một băng và cập nhật từng tế
bào trên băng nhờ một quy tắc cập nhật (update rule) định xứ (như
quy tắc 110 nói trên đây)
Đơn vị thông tin cổ điển là bit có khả năng lấy hai trị số
0 và 1.Trong lý thuyết lượng tử đơn vị thông tin là qubit (quantum bit-bit lượng
tử) . Về
mặt vật lý một qubit được biểu diễn bởi một hệ lượng tử có hai trạng thái. Ví dụ
photon (với phân cực thẳng đứng và nằm ngang), electron hoặc các hạt spin ½ (với
spin up và down) hoặc một hệ lượng tử như nguyên tử hoặc ion với hai mức năng
lượng.
Khi ta có hai qubit thì xuất hiện hiện
tượng gọi là liên đới lượng tử (quantum entanglement). Đó là lúc hàm sóng của
hai qubit không thể viết dưới dạng tích trực tiếp của hai hàm sóng riêng lẻ của
từng qubit mà có dạng ví dụ như
| 00 > +| 11 >. Có thể so sánh dạng này với dạng | 00 >+| 01 >, dạng sau không mô tả liên đới lượng tử được vì rằng ta
có thể viết nó dưới dạng
| 0 >(| 0 >+| 1 >) nghĩa là dưới dạng tích trực tiếp
của hai hàm sóng.
Các trạng thái liên
đới lượng tử còn được gọi là các trạng
thái Bell , hoặc trạng thái EPR hoặc cặp EPR,
đặt theo chữ cái đầu tiên của tên các tác giả Einstein, Podolsky &
Rosen là những người đầu tiên phát hiện ra các tính chất kỳ lạ của những trạng
thái đó: khi hai hạt liên đới lượng tử thì chúng tiếp tục tương tác với nhau mặc
dầu khoảng cách giữa chúng trở nên vô cùng.
Trong mạch lượng tử người ta cấy vào những cổng (gate) để thực hiện các phép tính.Các cổng quan trọng là:
Trong từ CNOT,chữ C = control. Qubit thứ nhất
đóng vai trò điều khiển (control). Ta thấy lúc qubit thứ nhất có trị số 0 thì
qubit thứ hai không thay đổi gì cả khi qua cổng CNOT, nhưng nếu qubit thứ nhất
bằng 1 thì trị số của qubit thứ hai thay đổi 0 thành 1và ngược lại.
Tập các cổng H,T,X và CNOT trên làm thành một tập toán tử
phổ quát (điều
đó có nghĩa là tập toán tử này cho phép thực hiện được mọi phép toán ).Ví dụ xem hình 7.
Hình 7 .Trạng thái
0 biến đổi sau khi đi qua các cổng H và T
Máy
tính lượng tử theo như ý tưởng ban đầu của Feynman là một máy tính có khả năng
mô phỏng các quá trình vật lý và hoạt động theo những định luật của lý thuyết
lượng tử .
Tiến
đến QCA
Phải
chăng Vũ trụ của chúng ta có thể biểu diễn thành một máy tính song song khổng lồ?
Có lẽ đúng vậy nếu như máy tính này tuân theo những định luật của Vật lý lượng
tử. Trong bài báo [3] Pablo Arrighi,
Jonathan Grattage ( hình 8) đã trình bày tổng quan ý tưởng này .
Hình 8. Từ trái sang phải :Pablo Arrighi, Jonathan Grattage
Đây
là lĩnh vực nghiên cứu của những nhà vật lý thuộc thế hệ thông tin lượng tử, một
lĩnh vực tích hợp lý thuyết thông tin (informatics),vật lý và toán học.
Một
số nhà khoa học hàng đầu như Seth Lloyd (
Massachusetts Institute of Technology, Mỹ) và Lee Smolin (Institut
Perimeter, Canada) đã có nhiều đóng góp
cho lĩnh vực này.Các tác giả này ủng hộ ý tưởng rằng vật lý lý thuyết không tập
trung vào khái niệm vật chất mà cần phải tập trung vào khái niệm “thông
tin-information”. Theo các tác giả này khi nghiên cứu những hạt đang chuyển động
và tương tác với nhau cần phải nghiên cứu đại lượng entropie (vốn là một hàm đo
thông tin) và sự trao đổi thông tin giữa những hệ.
Thật ra ý tưởng không mới . Entropie là đại
lượng cơ bản trong nhiệt động học.Và nhận
thức của những người quan sát ( người nhận
thông tin) và các phép đo (những phương thức để thu nhận thông tin) chiếm một vị
trí trung tâm trong lý thuyết tương đối và lý thuyết lượng tử.Hơn nữa lý thuyết
thông tin đã giúp chúng ta nhiều tiến bộ trong việc tìm hiểu các hiện tượng lượng
tử cơ bản.Ví dụ như hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement) nói trên
đây.
Vật
lý thông tin
Vật
lý thông tin (information physics) cho
phép chúng ta mô tả quá trình mất kết
hợp lượng tử ( quantum decoherence ) giải thích được vì sao nguyên lý
chồng chất , một nguyên lý cơ bản của lý thuyết lượng tử, không thể nào quan
sát được ở kích thước vĩ mô. Năm 1935 Schrodinger đã đưa ra nghịch lý con mèo để
làm ví dụ cho nghịch lý này.
Vật lý lý thuyết thực tế đã từ lâu là một lý
thuyết “thông tin”. Điều chúng ta muốn phát triển xa hơn là vật lý thực chất
trong tương lai có thể là một lý thuyết “tính toán” (computational).Để hiểu vấn
đề này ta trở lại những năm 1970. Tại Mỹ những nhà khoa học như Edward Fredkin (Đại học Carnegie Mellon, vàTommaso
Toffoli (Đại học
Từ
những ý tưởng đó Robin Gandy một nhà toán học và logic học Anh đã đề xuất ý tưởng
năm 1980: Vũ trụ có thể mô hình hóa bằng một máy tính cổ điển với bộ nhớ lớn vô
cùng. Trong khuôn khổ ý tưởng này người ta thống nhất dùng những nguyên tắc sau
đây:
·
Các
định luật vật lý là đồng nhất (có hiệu lực ở mọi nơi mọi thời điểm),
·
Thông
tin không thể truyền nhanh hơn vận tốc ánh sáng c,
·
Robin Gandy đưa ra nguyên tắc cho rằng một thể tích hữu hạn của không gian
chỉ chứa một lượng thông tin hữu hạn.
Như
vậy nếu phân không gian thành những khối lập phương nhỏ thì trạng thái của mỗi
hình lập phương ở thời điểm t+1 sẽ
là hàm số của trạng thái các hình lập phương lân cận ở thời điểm t . Các nhà lý thuyết thông tin gọi đây là
quy tắc định xứ (local rule). Và như thế trạng thái của vũ trụ ở thời điểm t+1
có thể tính được từ trạng thái của vũ trụ ở thời điểm t bằng cách sử dụng
quy tắc định xứ.
Tiến
hành như vậy Gandy đi đến kết luận Vũ trụ là một máy tính khổng lồ song song
hay nói cách khác cơ bản là một tế bào autômát.
Ý
tưởng thông tin lượng tử của Feynman đầu năm 1980 mở ra hướng đi cho máy tính
lượng tử.Phải nhờ máy tính lượng tử để tính toán những bài toán lượng tử, máy
tính cổ điển không làm được việc này.
Tương
tự như những máy tính cổ điển những máy tính lượng tử cũng được tổ chức thành mạng
chuyển tải thông tin.Song bây giờ đơn vị thông tin không phải là những bit với
các trạng thái 0 và 1 mà bây giờ là những qubit với trạng thái chồng chất của 0 và 1.
Để
xử lý thông tin một máy tính lượng tử sử
dụng những cổng logic ( logical gates) nói ở phần trên.
Người ta có thể tạo nên một hạt có cùng một
lúc 2 trạng thái: kích thích và không kích thích. Trong những thập kỷ cuối này
nhiều nhóm thực nghiệm trên thế giới đã thực hiện nhiều mạng lượng tử với những cổng cho một qubit như cổng
Hadamard. Điều khó khăn là thực hiện các cổng cho hai qubit như cổng CNOT và những mạng lượng tử với số lượng lớn.
Nhưng
các khó khăn thực nghiệm không ngăn cản các phát triển lý thuyết. Người
ta đã thay nguyên tắc mật độ thông tin hữu hạn của Gandy bằng
giả
thuyết cho rằng một thể tích không gian hữu hạn chỉ có thể chứa một số hữu hạn
các qubit. Điều
này dẫn đến một phiên bản mới của lý thuyết Gandy: đây là phiên bản lượng tử của
tế bào autômát.
Trong
phiên bản lượng tử này quá trình tiến triển ( evolution) theo thời gian từ t đến t+1 sẽ thực hiên được nếu sử dụng liên tiếp trong
không gian một số cổng lượng tử lên các
nhóm tế bào lân cận.Song những tế bào autômát lượng tử có những đặc tính nội tại
(inherent) của lý thuyết lượng tử. Các tế bào này có thể nằm trong trạng thái
chồng chất. Theo thời gian chúng có thể liên đới lượng tử với những tế bào khác
nằm xa chúng.
Có
thể xem ví dụ tế bào autômát lượng tử trong mô hình trò chơi lượng tử của sự sống
[4]. Trong mô hình này mỗi tế bào có thể hoặc “sống” hoặc “chết” hoặc nằm trong
trạng thái chồng chất của hai trạng thái đó.Sự biến đổi của mạng sẽ thu được bằng
cách áp dụng một cổng lượng tử lên những khối lập phương của hai tế bào bên cạnh
. Nếu ý tưởng ban đầu của Gandy là đúng thì về mặt lý thuyết chúng ta có thể
nghĩ rằng có thể miêu tả vũ trụ như một tế bào autômát lượng tử rất lớn. Trong
quan điểm đó thì vật lý có cứu cánh là suy ra “chương trình” của máy tính khổng
lồ lượng tử này.
Những
quy tắc phổ quát
Mục
đích của vật lý sẽ là dò tìm các quy tắc cập nhật nhờ các thí nghiệm càng ngày
càng chính xác tựa như những thí nghiệm thực hiện tại LHC, Geneve.Như vậy chắc
là quy tắc tìm ra có lẽ không quá đơn giản vì vũ trụ vốn phức tạp mà phải đủ phức
tạp để bao trùm những quy tắc khác :tính chất đó gọi là “tính phổ quát nội tại”
(intrinsic universality). Trước mắt QCA
còn
lại nhiều chướng ngại vật.
Bài
toán lan truyền tín hiệu và lý thuyết tương đối
Một
chướng ngại đối với các mô hình tế bào autômát lượng tử QCA là các mô hình này
không đẳng hướng; khi chúng ta sử dụng một mạng vuông, những tín hiệu lan truyền
nói chung theo bốn hướng tọa độ nhanh hơn là theo hướng đường
chéo.Như vậy các mô hình sử dụng mạng vuông như thế để làm hệ quy chiếu khó
lòng mô phỏng được sự lan truyền sóng mặc dầu có thể mô phỏng gần đúng.
Một
chướng ngại tiếp theo là vật lý số lượng tử chưa tích hợp được lý thuyết tương
đối rộng (giống như những lý thuyết số cổ điển trước đây chưa tích hợp được lý
thuyết lượng tử).Như vậy cần phát triển thêm lý thuyết tế bào autômát lượng tử
để vượt qua các chướng ngại trên.
Đối
với chướng ngại thứ hai các tác giả về hấp dẫn lượng tử như Tomasz Konopka, Fotini Markopoulou và Lee
Smolin[5] đã nêu lên hướng giải quyết ban đầu.
Chúng ta có thể hy vọng một phiên bản vật lý số lượng tử tương đối tính sẽ xuất
hiện trong các thập kỷ sắp đến.Trong lý thuyết mới tế bào autômát lượng tử với tính phổ quát nội tại sẽ đóng vai trò quan trọng.
Các
nhà vật lý cần “lượng tử hóa” máy tính.Vậy thay vì CA (Cellular automaton)
chúng ta sẽ có QCA (quantum cellular automaton). QCA sẽ mô tả được lối hành xử
của những hệ lượng tử. Như vậy QCA bao trùm mọi lĩnh vực tính toán lượng tử.
Chú ý các quy tắc cập nhật (update rule) là định xứ
(local) và đồng nhất ( homogenous) như các định luật vật lý. Vì lý do đó người
ta mô hình các hệ vật lý nhờ CA.Ngược lại nếu chúng ta có thể tìm được một cơ
chế vật lý thực hiện quy tắc cập nhật thì chúng ta có thể dùng cơ chế đó để đưa
CA vào thế giới khách quan vả thực hiện các phép tính.
Song vấn đề là cần phải lượng tử hóa CA thành QCA vì
thế giới khách quan vốn phải tuân theo lý thuyết lượng tử.
QCA là kết quả “ lượng tử hóa” CA
Câu
chuyên bắt đầu từ công trình nổi tiếng của Feynman năm 1982 “ Mô phỏng vật
lý bằng máy tính”. Phải nhiều năm trôi qua thì khái niệm đó của Feynman mới
định dạng được .
Người
có công lớn là John Watrous nhờ công
trình năm 1995 . Ý tưởng chính của tác
giả này là thay các quy tắc cập nhật cổ điển, tất định luận bằng các quy tắc cập nhật lượng tử .Ý tưởng này được Horowicz trình bày
ngắn gọn dưới dạng sơ đồ sau đây [6].
Như
ta thấy trong quy tắc 110 của CA ta có quy tắc (xem hình 9)
Hình 9. Một quy tắc trong 110
Bây giờ muốn lượng tử hóa CA ta phải thay những quy tắc cổ
điển trên bằng những quy tắc cập nhật lượng tử như quy tắc ở hình 10.
Hình 10. Quy tắc cập nhật lượng tử
Như
vậy trước đây quy tắc cập nhật có thể xem như một ánh xạ các trạng thái của các
tế bào bên trái (left), bên phải(right) và bản thân tế bào cũ (old) nằm ở giữa hai
tế bào trên thành trạng thái của một tế bào mới (new).
Xuất phát từ các quá trình chuyển biên độ định xứ (local) đó chúng ta có thể tính được sự chuyển biên độ toàn xứ (global) quét mọi tế bào đánh dấu i .
Toán
tử U phải là một toán tử unita.Nhờ toán tử này chúng ta có thể thực hiện được quá trình lượng tử hóa CA hay
nói cách khác chuyển CA thành QCA là đối tượng cuối cùng chúng ta quan tâm.
Kết
luận
Như
vậy người ta có thể xây dựng được QCA, một
công cụ lượng tử cần thiết để mô tả vũ trụ.Xem vũ trụ là một máy tính lượng tử
khổng lồ như nói ở trên là một quan điểm nhằm tiến đến một lý thuyết thống nhất
tối hậu của vật lý.Quan điểm này dẫn đến một hình hệ (paradigm) mới dựa trên thực thể cơ bản là
thông tin chứ không phải là vật chất. Đây là một hướng nghiên cứu mở ra nhiều
triển vọng, một hướng nghiên cứu tích hợp lý thuyết thông tin (informatics),vật lý và
toán học.
Cao Chi
Tài
liệu tham khảo
[1]
Stephen Wolfram, A new kind of Science: NKS | ON LINE, 2007
[2] Tại sao quy tắc này có tên là quy tắc 110? Hãy nhìn dãy số ứng với trạng thái của tế bào
nằm giữa trên hàng dưới (hình 3):
01101110= trong hệ nhị
phân dãy số này bằng =
0.2 7
+ 1.2 6+ 1.2 5 + 0.2 4 + 1.2 3 +
1.2 2 +1.2 1 + 0.2 0
=
64+32+8+4+2 =110. Vì thế quy tắc này gọi là quy tắc 110.
Nếu dãy số ứng với trạng thái của tế
bào nằm giữa trên hàng dưới của hình 2 lại là : 00011110 thì chúng ta có quy tắc 30.
[3] Pablo Arrighi,
Jonathan Grattage, Le monde est un
ordinateur quantique La recherche , Sept.2012 p.72
[4] P. Arrighi et J. Grattage,Proceedings of JAC 2010,2010.
[5] Tomasz Konopka, Fotini Markopoulou and Lee Smolin,Quantum Graphity,arXiv:hep-th/0611187v
, 17 November 2006
[6] Joshua Horowitz, An Introduction to Quantum Cellular Automata
web.mit.edu/joshuah/www/projects/qca.pdf
Nhận xét
Đăng nhận xét