HAI BÀI TOÁN THIÊN NIÊN KỶ VỀ VẬT LÝ LÝ THUYẾT
Giới thiệu
HAI BÀI TOÁN THIÊN NIÊN KỶ VỀ VẬT LÝ LÝ
THUYẾT
Những bài toán thiên niên kỷ (
Millennium problems) là 7 bài toán đề ra
bởi Viện Toán Clay tháng 14 tháng 5/2000. Mỗi giải cho một bài toán có mệnh giá
1 triệu $.
Đến hiện nay chỉ có một bài
toán đã được giải xong ,đó là bài toán Phỏng thuyết Poincaré (Poincaré
conjecture),người được giải là nhà toán học Nga Grigori Perelman (năm 2003).Trong
số 7 bài toán nói trên có 2 bài toán thuộc vật lý lý thuyết : bài toán
Navier-Stokes và bài toán Yang-Mills lượng tử.
PHƯƠNG TRÌNH CƠ HỌC MÔI TRƯỜNG LIÊN TỤC
NAVIER-STOKES
Thế giới của chúng ta đầy rẫy những chất
lỏng.Từ máu chuyển động trong các mạch máu li ti dến nhiều hiện tượng thủy khí
động học khác trong bầu khí quyển (hàng không), trong đại dương (hàng hải) cùng
bao nhiêu vấn đề gắn liền với cuộc sống.
Thế mà lạ thay là chúng ta chưa có một mối hiểu biết sâu sắc
toán học về chuyển động của các chất lỏng.
1
. Phương trình
Navier-Stokes
Chúng ta đã có một mô hình mô tả bởi phương trình
Navier-Stokes song lại không có một điều gì bảo đảm rằng phương trình đó không dẫn đến những điều sai lầm tai hại.
Có thể viết phương trình trên trong không
gian n chiều (và liệu lý thuyết trong không gian 2 chiều có khác trong không
gian 3 chiều không ? [4] ).
Có thể xem Landau-Lifchitz tập VI ,Cơ học môi trường liên tục trang
68 về cách thiết lập phương trình Navier-Stokes.
Phương trình Navier-Stokes được viết ra năm 1800 bởi George Stokes (Anh) và Claude-Louis Navier
(Pháp).
Claude-Louis Navier và George Gabriel Stokes
Vì sao viện toán Clay đặt giải 1 triệu $ cho bài
toán Navier-Stokes?
Vấn đề ở chỗ phương trình Navier-Stokes rất khó giải! Phần
lớn các nhà toán học sử dụng các phương pháp tính số để tiếp cận vấn đề này
song đây cũng là một đề cập chứa nhiều khó khăn.
Ngay
cả trong trường hợp nếu thu
được một lời giải thì lời giải đó lại dẫn đến tình huống là chất lỏng sẽ được
gia tốc với một tốc độ vô cùng – đây là tình huống gọi là “bùng nổ”-blowing up.
Lẽ dĩ nhiên tiên đoán chất lỏng với vận tốc vô cùng là dấu hiệu rằng mô hình
toán học không phù hợp với thực tại.
Còn
tệ hơn là chúng ta không biết lời giải của phương trình có tồn
tại cho một chất lỏng bất kỳ hay không . Như vậy khi sử dụng phương trình
Navier-Stokes trong y học hoặc trong khí động học hàng không và vũ trụ chúng ta
không có một bảo đẩm nào là sẽ có lời giải đúng với thực tại.
Vậy muốn
nhận được 1 triệu $ của viện Clay chúng ta phải chứng minh bằng toán học rằng
phương trình Navier-Stokes luôn là một chương trình phản ánh thực tế khách quan
mà không dẫn đến tình huống bùng nổ -blowwing up hoặc là chứng minh rằng tồn
tại những trường hợp mà phương trình Navier-Stokes nhất định không cho một lời
giải nào.
2 . Các cuộn xoáy
(turbulence)
Một trong những khó khăn lớn là hiện tượng
cuộn xoáy (turbulence) trong dòng chảy.
Về phương diện vật lý hiện tượng cuộn
xoáy (turbulence) xảy ra khi một dòng chảy lớp (laminar) bột phát tách thành
những dòng xoáy nhỏ (eddies hay vortices) . Những dòng xoáy nhỏ đó lại vỡ ra
thành những dòng xoáy nhỏ hơn rồi tiếp tục như thế ta có một thác (cascade) vỡ
thành các dòng xoáy nhỏ hơn không tiên đoán được . Điều này làm khuếch tán năng
lượng của dòng chảy nguyên thủy.
Vì
vậy sụ tồn tại cuộn xoáy (turbulence) là nguyên
nhân của việc chứng minh rằng các phương trình Navier-Stokes có một ý nghĩa
thực tế là một việc làm khó khăn trong toán học và vật lý.
Ta có thể
mường tượng rằng hiện tượng cuốn xoáy dẫn đến việc năng lượng dòng chảy tập
trung vào điểm đặc biệt nào đó trong chất lỏng và như thế gia tốc dòng chảy tại
điểm đó đến một vận tốc lớn vô cùng
Điều này về mặt toán học có
thể xảy ra.Việc chứng minh rằng hiện tượng này nhất quyết không xảy ra hoặc ngược lại hiện tượng này nhất thiết xảy
ra là rất khó khăn.
Bài toán này tồn tại đã 150 năm
Những phương trình Navier-Stokes với mục tiêu mô tả dòng chảy chất lỏng lại có thể là một bài toán khó đến như vậy về
mặt toán học còn khó khăn cả việc
nghiên cứu các phương trình Einstein (dẫn đến những hiện tượng lạ lùng như lỗ
đen như sóng hấp dẫn).
Nhiều nhà khoa học cho
rằng nguyên nhân chính là sự hình thành cuộn xoáy (turbulence). Hiện tượng cuốn
xoáy là một trong những điều khó khăn nhất trong vật lý hiện đại.
Người
ta mong muốn tìm xem các cuộn xoáy đã phát sinh như thế
nào và mô hình dòng chảy một khi cuộn xoáy đã phát sinh.
Song giải Clay thật sự đòi hỏi
một điều khiêm tốn hơn:chứng minh rằng lời giải có tồn tại hay không.
Kết luận
Cách hành xử
của chất lỏng quả đáng ngạc nhiên vô cùng –Charles Fefferman , người đề xướng
giải về phương trình Navier-.đã phát biều như vậy. Ta đã có phương trình mô tả chuyển động
của chất lỏng song từ đó suy được lời giải mô tả chuyển động thực tại dòng chảy
lại vẫn là một điều bí hiểm .
BÀI TOÁN : LÝ THUYẾT YANG-MILLS LƯỢNG TỬ
Trong lĩnh vực toán lý, sự tồn
tại Yang-Mills và bài toán khe năng
lượng là một bài toán thuộc vật lý lý thuyết chưa giải được .
Lý thuyết
Yang-Mills
Lý thuyết Yang-Mills
mang tên của 2 tác giả : Chen Ning Yang và
Robert Leroy Mills
Chen Ning Yang và
Robert Leroy Mills
Về mặt toán học
trường Yang-Mills là liên thông của không gian phân thớ (fiber bundle) với nhóm
côm-pắc G như là nhóm cấu trúc
(structure group).
Lý thuyết Yang-Mills
hiện nay là lý thuyết quan trong nhất trong lý thuyết trường. Lý thuyết
Yang-Mills được áp dụng trong QED (G=U(1)) , tương tác điện yếu (G=SU(2)xU(1)),
tương tác mạnh (G=SU(3)).
Có
2 trường hợp
Yang-Mills: abelian (QED) và non-abelian (tương tác yếu và hạt nhân )
Đề bài toán giải Clay được phát biểu bởi Arthur Jaffe và Edward Witten như sau:
Chứng minh rằng với mọi nhóm chuẩn đơn côm-pắc G, tồn tại một lý thuyết Yang-Mills trên R 4 với một khe năng lượng delta
thỏa mãn các tiên đề Wightman (1964) trong lý thuyết trường.
Nội dung
vấn đề
Trong phát biểu trên lý thuyết
Yang-Mills là lý thuyết trường lượng tử không abelian tương tự mô hình chuẩn
(SM) trong lý thuyết các hạt cơ bản ; R 4 là không gian euclide 4
chiều , khe Δ là khối lượng của hạt có
khối lượng nhỏ nhất tiên đoán bởi lý thuyết.
Như vậy người thắng giải phải chứng minh
được những điều sau:
- Lý thuyết Yang-Mills tồn tại và thỏa mãn
những các tiêu chí của vật lý-toán hiện đại,
- Khối lượng của
hạt với khối lượng thấp nhất phải nhất thiết là một đại lượng dương. Ví dụ
trong trường hợp G=SU(3) –tương tác mạnh – người được giải phải chứng minh rằng
khối lượng glueball (gluon) phải có hạn dưới và không thể nhẹ một cách bất kỳ.
Trong vật lý học lý thuyết cổ điển Yang-Mills là lý thuyết tổng quát hóa của lý thuyết Maxwell của
điện động lực học QED và QCD (Quantum Chromodynamics-Sắc động học lượng tử )
Như là một lý thuyết cổ điển
chúng ta có lời giải chuyển động với tốc độ ánh sáng vậy trong lý thuyết lượng
tử thì đây là hạt gluon với khối lượng bằng không.
Tuy nhiên hiện tượng cầm tù của
màu (color confinement) chỉ cho phép những
trạng thái liên kết của gluon (bound states of gluons )là những hạt có khối lượng. Đó chính là
khe năng lượng.
Một khía cạnh khác của hiện
tượng cầm tù màu là hiện tượng tiệm cận tự do (asymptotic freedom),
hiện tượng này buộc rằng lý thuyết lượng tử Yang-Mills tồn tại mà không có điều
kiện nào bắt buộc về năng lượng .
Tóm lại bài toán đặt ra là tồn
tại lý thuyết lượng tử Yang-Mills với một khe năng lượng.
Lý thuyết quan trọng nhất
trong QFT (Quantum Field Theory )để mô tả các hạt cơ bản là các lý thuyết chuẩn
(gauge theory). Ví dụ nhiều người biết đến là lý thuyết chuẩn với QED, ở đây
nhóm chuẩn (gauge group) là U(1), trong trường hợp khác ta thay U(1) à bằng một nhóm chuẩn côm-pắc G .
Bản chất “không khối lượng “
(massless nature) của lý thuyết Yang-Mills cổ điển là một khó khăn khi áp dụng
lý thuyết trường chuẩn vào các trường hợp khác QED như các trường lực yếu hoặc
hạt nhân và các trường hợp với lực ứng
với các hạt có khối lượng (gắn liền với tương tác tầm ngắn).Người ta cần
sử dụng thêm “trường Higgs” để vượt qua bản chất “không khối lượng “ của lý
thuyết Yang-Mills cổ điển.
Vậy vấn đề ở đây phải chuyển
Yang-Mills cổ điển thành à Yang-Mills lượng tử , và trong phiên bản lượng tử lẽ dĩ nhiên xuất hiện trạng thái vacuum và khe năng lượng
(tức khe phân chia vacuum với trạng thái khối lượng thấp nhất).
Lý
thuyết lượng tử là lý thuyết cơ bản để mô
tả các hạt và tương tác giữa chúng như vậy việc thay Yang-Mills cổ điển bằng
Yang-Mills lượng tử là việc phải làm.
Lý thuyết Yang-Mills cổ điển mô tả các hạt không khối lượng và tác
động tầm xa.
Lý thuyết Yang-Mills lượng tử mô tả tác đông
tầm gần và các hạt có khối lượng.
Bài toán Yang-Mills lượng tử
cũng quan hệ đến nhiều vấn đề toán học như các tích phân đường (path integral)[
4 ] (Fadeev ) trong lý thuyết lượng tử .
Kết luận
Tìm được lý thuyết Yang-Mills
lượng tử với khe năng lượng là một bài toán khó xứng đáng với giá trị một triệu
$ của giải Clay.
Trong công trình [4] , Fadeev
sử dụng phương pháp phiếm hàm và sơ bộ góp ý rằng bài toán Yang-Mills lượng tử với
khe năng lượng có thể giải được .
CAO
CHI
Tài liệu tham khảo
[1] Landau-Lifschitz, Cơ học môi trường liên tục, Moskva 1954
[2] Matt Parker,Win a million dollars
with maths, No. 3: The Navier-Stokes equations
https://www.theguardian.com/science/blog/2010/dec/14/million-dollars-maths-navier-stokes
[3]Kevin Hartnett
What
Makes the Hardest Equations in Physics So Difficult?
https://www.quantamagazine.org/what-makes-the-hardest-equations-in-physics-so-difficult-20180116/
[4] Joshua Sokol,
Mathematicians
Tame Turbulence in Flattened Fluids
https://www.quantamagazine.org/mathematicians-tame-turbulence-in-flattened-fluids-20180627/
[5] ARTHUR JAFFE AND EDWARD
QUANTUM YANG–MILLS THEORY
[6]Michael Murray, Alan Carey, Peter Bouwknegt, Millennium
Prize: the Yang-Mills Existence and Mass Gap problem
https://theconversation.com/millennium-prize-the-yang-mills-existence-and-mass-gap-problem-3848
[7]Yang–Mills existence
and mass gap
From Wikipedia, the free
encyclopedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Yang%E2%80%93Mills_existence_and_mass_gap
[8]L. D. Faddeev, Mass
in Quantum Yang-Mills Theory
(Comment on a Clay Millenium Problem)St.
Petersburg Department of SteklovMathematical Institute.
arXiv:0911.1013v1 [math-ph]
5 Nov 2009
Nhận xét
Đăng nhận xét