nhìn lại CƠ HỌC LƯỢNG TỬ & CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Cơ học
lượng tử (CHLT) có nhiều điểm kỳ lạ,
không dễ nhận ra bằng trực quan. Đó là những vấn đề như hiện thực (realism),
phi định xứ (non locality) và liên đới
lượng tử (quantum entanglement). Song những điều kỳ lạ này của CHLT lại xuất hiện
như những điều kỳ diệu trong Công
nghệ tin học (CNTH) [1].
Ba
nhà vật lý: Alain Aspect (Pháp), John F. Clauser (Mỹ), Anton
Zeilinger (Áo) nghiên cứu liên đới lượng tủ vừa được giải Wolf năm 2010.
Hình1
. Những nhà khoa học có đóng góp lớn vào lý thuyết lượng tử, từ trái sang phải
và từ trên xuống dưới: Max Planck, Albert Einstein, Niels Bohr, Louis de
Broglie,Erwin Schrodinger ,Max Born, Werner Heisenberg, Paul Dirac, Richard
Feynman, John Bell, David Bohm, Milo Wolff.
Quan
điểm hiện thực (realism)
Như
chúng ta biết cơ học cổ điển chỉ ứng
dụng được đối với thế giới vĩ mô. Đối với thế giới vi mô (thế giới các hạt cơ
bản ) phải ứng dụng CHLT(hình 1).Từ năm 1920 CHLT đã mô tả thế giới vi mô với
độ chính xác cao. Song nhà vật lý lớn của mọi thời đại là Einstein đã không
thừa nhận CHLT. Einstein có lý hay không? Những thí nghiệm trong năm 2007 chứng
tỏ rằng Einstein đã sai lầm. Các thí nghiệm này cho chúng ta biết rằng: các
tính chất của các hạt “ không tồn tại “ trước khi các tính chất đó được quan
sát bởi một thiết bị đo đạc.
Theo
CHLT thì một hạt cơ bản không có một tính chất xác định ví dụ hình chiếu của
spin trên trục z: s z hoặc trên
trục x: s x cho đến khi chúng ta thực hiện một phép đo
thích hợp để tìm đại lượng tương ứng.
EPR
(Einstein, Podolsky, Rosen) phủ nhận nhận định đó, cho rằng hạt có những tính
chất nhất định không phụ thuộc vào phép đo, đó là quan điểm gọi là hiện thực
(realism): hạt đã có trước một tính chất nào đó trước phép đo!
Liên đới lượng tử (quantum entanglement)
Thế nào là liên đới lượng tử ?
Theo CHLT người ta có thể chế tạo một cặp hạt liên đới lượng tử
(quantum entangled), hay còn gọi là cặp
EPR điều đó có nghĩa về mặt toán
học đây là một cặp hạt mà hàm sóng f của
chúng không thể viết thành tích trực tiếp hàm sóng của từng hạt: f không bằng f1 nhân trực tiếp với f2 , hay nói cách khác là các tính chất
của các hạt không độc lập với nhau mà liên quan với nhau .
Có thể chế tạo một cặp hạt EPR hay không?
Nhà vật lý Pháp
Alain Aspect (hình 2) đã đưa ra một phương pháp đơn giản để chế tạo
cặp hạt liên đới lượng tử : khi một xung
laser bắn vào một tinh thể có những tính chất gọi là “ phi tuyến “ , thì một
photon biến thành một cặp photon liên đới lượng tử ( với độ dài sóng lớn hơn ).
Ngoài ra hai photon có thể liên đới lượng tử nếu được
sinh ra ví dụ từ phân rã của hạt p-meson trung hoà.
Hình
2. Nhà vật lý người Pháp Alain Aspect đã chứng minh rằng hai hạt cơ bản có thể
liên đới ở khoảng cách xa mà không có một mối liên quan vật lý nào giữa chúng.
Phi định
xứ (non-locality)
Tính chất
lạ lùng của cặp hạt liên đới lượng tử
Cặp
hạt liên đới lượng tử có một tính chất lạ lùng phát hiện bởi Einstein trong
những năm 30 của thế kỷ trước : hai thực
thể liên đới lượng tử dường như được nối
liền với nhau bởi một sợi dây vô hình, bí ẩn, dầu tách chúng xa
nhau đến mức nào, trị riêng đo được
của hạt này lại phụ thuộc vào trị riêng
đo được của hạt kia, cho dù rằng chúng
được tách rời nhau đến vô cực ! Hiện tượng ảnh hưởng của phép đo thực hiện trên một hạt này đối với hạt
cách xa là một hiện tượng “phi định xứ “
( non-locality ).
Einstein
đã gọi hiện tượng này là một tác động ma quái
ở khoảng cách
( spooky action at a distance ) . Đây là
một hiện tượng thuần tuý cơ học lượng tử
. Trong những năm gần đây hiện tượng
liên đới lượng tử mở ra những triển vọng to lớn về viễn tải lượng tử,
tính toán lượng tử và mật mã lượng tử [2].
Nghịch lý EPR
(Einstein, Podolsky, Rosen)
Hình3 . Einstein,
Podolsky và Rosen
Sự chống đối CHLT lên đến đỉnh cao khi EINSTEIN cùng
PODOLSKY và ROSEN đưa ra cái gọi là nghịch lý EPR
(lấy theo chữ đầu từ tên của ba người, xem hình 3). Tên bài báo là: Liệu sự mô tả thực tại vật lý bằng CHLT có thể xem là đầy đủ hay không?
(Can
QM Description of Physical Reality Be Considered Complete?).
Nội
dung của nghịch lý có thể tóm tắt như sau.
Theo
CHLT người ta có thể chế tạo một cặp hạt liên đới (entangled) lượng tử. Xét hai hạt liên đới lượng tử và tách chúng ra xa nhau. Khi đo
tọa độ của hạt thứ nhất thì sẽ biết được tọa độ
của hạt thứ hai, vì chúng liên
đới lượng tử. Song bây giờ lại
đo xung lượng của hạt thứ hai
ta lại có thể biết được xung lượng của hạt thứ nhất . Như thế ta có thể đồng
thời đo được tọa độ lẫn xung lượng của
mỗi hạt: điều này trái với nguyên lý bất định Heisenberg của CHLT. Đó là nghịch lý EPR.
Lý
luận trên dựa trên hai giả thuyết:
1 / Giả
thuyết hiện
thực ( realism): hạt có một
tính chất khách quan trước khi ta thực
hiện phép đo tính chất đó,
2 / Giả
thuyết định
xứ ( locality): phép đo trên
hạt thứ nhất không ảnh hưởng đến kết quả phép đo trên hạt thứ hai, mặc dầu
chúng cách xa nhau.
Bohr
đã trả lời EPR vài tuần sau khi EPR công bố nghịch lý nói trên. Trong bài trả
lời, Bohr phủ nhận giả thuyết hiện thực (tuy rằng có một ít yếu tố mơ hồ trong bài
trả lời, song Bohr đã đi đúng đường). Theo Bohr
CHLT có thể biết được các tính chất của hạt trong điều kiện thực hiện
phép đo các tính chất đó. CHLT không mô tả thực tiễn theo ý tưởng tiên
quyết của chúng ta. Bohr cho rằng vô
nghĩa khi gán cho hạt một tính chất nào đó mà lại tách rời khỏi các điều kiện
thực nghiệm cho phép đo được tính chất đó.
Bất đẳng thức
Năm
1964 John Bell (xem hình 4) tìm ra bất đẳng thức gọi là bất đẳng thức
Thế
nào là bất đẳng thức
Hình4.
John Bell (mất năm 1990), CERN đã tìm ra hệ thức Bell để kiểm nghiệm
CHLT.
Sau đây là một thí nghiệm để suy ra bất đẳng thức Bell.
Charlie chuẩn bị 2 hạt (không quan trọng là Charlie đã
chuẩn bị như thế nào) và gửi cho Alice
& Bob mỗi người một hạt (hình 5).
Hình 5. Charlie chuẩn bị hai
hạt liên đới và gửi cho
Các
dữ liệu thực nghiệm cho thấy rằng bất đẳng thức
Hai
vấn đề gắn liền với bất đẳng thức
(1)
. Cho rằng Q, R, S, T tồn tại độc lập
với các phép đo. Đó là quan điểm hiện
thực (realism).
(2)
. Việc giả định rằng
Hai
quan điểm trên kết hợp lại thành quan điểm hiện
thực định xứ (local realism). Bất
đẳng thức Bell không đúng với thực tế và như vậy ít nhất một trong hai quan
điểm nói trên là sai lầm Đây là bài học
lớn cho chúng ta: vũ trụ không hiện thực định xứ !
Sự
vi phạm bất đẳng thức Bell cho chúng ta
thấy rằng:
Cơ
học lượng tử là đúng và hiện tượng liên đới lượng tử
(quantum entanglement) là một nguồn sức
mạnh mới cho khoa học và công nghệ vì hiện tượng liên đới lượng tử làm đột sinh
một ngành mới quan trọng đó là lý thuyết
thông tin lượng tử (Quantum Information Theory) dẫn đến ngành mật mã lượng tử (Quantum cryptography).
Bất đẳng thức Leggett
Nhiều
nhà vật lý cho rằng nên giữ lại quan điểm hiện
thực (realism), mà từ bỏ quan điểm định
xứ (locality).
Người
ta giả sử rằng hai photon liên đới lượng tử có một trạng thái phân cực
(polarisation) xác định, nghĩa là tuân
theo hiện thực luận.
Người
ta loại giả thuyết định xứ bằng cách cho rằng tồn tại một tác động ở
khoảng cách vô cùng (phi định xứ), một tác động ma quái (spooky action) mà Einstein
đã nói đến.
Nhà
vật lý giải Nobel 2003 Anthony Leggett
đã tìm ra một hệ các bất đẳng thức (tương tự như bất đẳng thức
Thí
nghiệm thực hiện năm 2007 của Anton Zeilinger, hình 6 (và nhiều người khác), lại
loại trừ một lớp lý thuyết không định xứ song theo hiện thực
luận vì vi phạm hệ bất đẳng thức
Anthony Leggett . Vậy hy sinh định xứ luận không đủ cứu vãn hiện thực luận.
Hình 6. Nhóm của
Anton Zeilinger (đại học
Nói
cách khác các thí nghiệm đều dẫn đến kết
quả phủ nhận hiện thực luận lẫn định xứ luận .
Cơ
học lượng tử là đúng và hiện tượng liên đới lượng tử
là một nguồn sức mạnh mới cho khoa học
và công nghệ.
Máy tính
lượng tử
Qubit ( quantum bit ), bit lượng
tử là gì ?
Chúng ta đã biết bit là một thực
thể vật lý , có thể lấy 2 trạng thái mà trong
kỹ thuật số ta gọi là 0 và 1 .
Một bit lượng tử được viết tắt là qubit
( hoặc qbit) . Song
một điểm khác nhau giữa bit và qubit là
: ngoài hai trạng thái 0 và 1 , qubit còn có nhiều trạng thái trung gian giữa 0 và 1 làm thành một tổ hợp tuyến tính của 0 và 1
Như vậy qubit có cả một continuum trạng thái giữa 0
và 1. Người ta có thể thực hiện qubit nhờ hai trạng thái phân cực của photon,
có thể nhờ hai hình chiếu spin của một electron , …
Người ta cũng có thể xét hệ nhiều qubit. Hai qubit có các trạng thái
00 , 01 , 10
và 11 do đó có trạng thái tổng
quát là tổ hợp tuyến tớnh của cỏc trạng thái đó.
Sức mạnh của máy tính lượng tử ở
đâu? [2]
Bước cơ bản trong tính toán lượng tử là
phép toán unita U trên trạng thái chồng chất l-qbit. Phép toán U được
thực hiện song song đối với tất cả 2exp(l) biên độ phức .Trong máy tính cổ điển một
phép toán như vậy đòi hỏi 2exp(l) bước tính cơ bản
cho mỗi biên độ .
Chính tính chất song
song lượng tử này trong các máy tính lượng tử dẫn đến một gia tốc hàm mũ
cho quá trình tính toán. Đây là ưu thế tuyệt đối của máy tính lượng tử so với
máy tính cổ điển thông dụng hiện nay.
Viễn tải lượng
tử (teleportation)
Có
thể chăng làm biến mất một con người tại một điểm, để rồi tái tạo con người đó
tại một điểm khác? Đây là khoa học hay viễn tưởng?
Phim
khoa học viễn tưởng nhiều tập Star Trek đã
dựng nên một viễn cảnh khoa học giàu tưởng tượng.Thuyền trưởng Kirk nhờ thuyền
phó bấm một số nút và Kirk đã phi vật chất hoá (dematerialise) thành một tia chớp ánh sáng để xuất hiện trên một
hành tinh bí ẩn .
Viễn
tải (teleportation) từ lâu là một câu
chuyện khoa học viễn tưởng. Đến năm 1992 một nhóm các nhà vật lý và tin học đã
tìm ra ý tưởng để sao chép một trạng thái của một hạt đến một nơi khác. Họ đã sử dụng một hiện tượng do
Einstein phát hiện trong những năm 30 của thế kỷ trước: trong một số điều kiện,
hai thực thể lượng tử lại được nối liền với nhau (liên đới lượng tử –quantum entanglement) bởi một
sợi dây vô hình, bí ẩn.
Trong những năm gần đây người ta đã tiến hành
những thí nghiệm chứng tỏ viễn tải lượng tử là vấn đề khoa học nghiêm chỉnh, mở
ra những khả năng rộng lớn cho tính toán lượng tử, mật mã lượng tử.
Quá trình viễn tải thực hiện như được mô tả ở hình 7 .
Hình 7 . Trên
hình là mạch lượng tử để viễn tải một qubit. Dòng trên hết là qubit 1 mà ta muốn viễn tải trạng tháí. Dòng thứ
hai là qubit 2 ứng với hạt 2 trong cặp EPR mà
Lẽ dĩ nhiên, Bob cần có thông tin từ
Alice để biết kết quả đo của Alice , vậy Alice phải dùng một kênh thông tin cổ
điển để báo cho Bob biết kết quả đo của mình, như thế Alice cũng không viễn tải
trạng thái Y nhanh hơn ánh sáng
được !
Như vậy với viễn tải lượng tử cần
chú ý hai điều :
1.
Không thể chuyển thông tin nhanh hơn tốc độ ánh sáng
2.
Trạng thái Y ban đầu bị phá huỷ vì sau các phép đo, Y co lại thành hoặc trạng
thái 0 hoặc 1 tuỳ theo kết quả đo được đối với qubit số 1(hình
7). Hiện tượng này gọi là định lý “không nhân bản được “ ( no-cloning theorem ).
Mật mã
lượng tử (Quantum cryptography)
Mật mã là
khoa học trao đổi thông tin dưới dạng mã hóa mà người ngoài cuộc (trừ người gửi
và người nhận) không phá mã được. Đây là một vấn đề lớn phức tạp (hình 8).
Một
tin mã hoá có nghĩa là một tin mà chỉ riêng người gửi và người nhận biết được
mà thôi .Ví dụ một tin M có thể mã hoá qua E nhờ thuật toán sau
E = M s mod
c
Nếu c là tích của hai số nguyên tố p & q thì người ta có thể chứng minh rằng M có thể bẻ khoá được
theo thuật toán
M = E t mod c
Trong đó t là một hàm số đơn giản của p & q . Chỉ cần giữ bí mật p &
q ,các đại lượng khác có thể cho biết công khai .Nếu c
đủ lớn thì bẻ khoá bằng cách tìm p
& q là một việc không làm nổi đối với máy tính cổ điển hiện dùng .
Mã RSA (Rivest,Shamir&Adleman) sử dụng ý tưởng
trên. Đây là bài toán thừa số hóa (factorization), song hiện nay sử dụng thuật
toán Shor người ta có hy vọng bẻ được khóa.
Chỉ có cách dùng
mật mã lượng tử (quantum cryptography) mới tránh được bẻ khoá khi phát giác được kẻ nghe trộm (eavesdropper).
Biên bản
(protocol) BB84 (C.H.Bennett & G. Brassard, 1984)[2]
(từ biên bản ở đây có nghĩa là phương thức hiệp đồng).
Alice dùng hai kiểu phân cực (polarization settings) A và
B, xem hình 9:
1 / A: dọc
và ngang
2 / B: chéo
- 45 độ và + chéo + 45 độ
Alice bắt đầu với 4n qbit. Mỗi qbit có 4 trạng thái : [0
,1 ] và [- ,+] .Hai trạng thái đầu ứng với kiểu phân cực A
của bit 0 và bit 1, tương tự như vậy hai trạng thái sau ứng với kiểu B.
Ta có 3 nhân vật: Alice (người gửi thông điệp về khóa),
Bob (người nhận ) & Eve (điệp
viên=eavesdropper=nghe trộm) [3].
Alice gửi đi khóa
mật mã bằng cách dùng các bit 0 & 1.
Hình 9 . Các kiểu
phân cực A (dọc, ngang) và B( -,+)
Ví dụ: Alice gửi đi bit 0 trong kiểu phân cực A vậy
photon có phân cực dọc
Bob khi nhận thông điệp này không biết được kiểu phân cực
mà Alice đã dùng cho nên phải chọn một kiểu phân cực bất kỳ, ví dụ Bob chọn
đúng kiểu A mà Alice đã dùng và thu được
photon phân cực dọc tức bit 0.Vậy
mọi việc đều ổn.
Song nếu Bob lại chọn kiểu phân cực B (tức khác với kiểu phân cực A mà Alice đã dùng khi gửi thông điệp) thì 50%
Bob chọn là photon phân cực - tức
bit 0 và 50% photon phân cực + tức bit 1.
Bây giờ nếu
có một kẻ nghe trộm là Eve. Sau khi
Sau mọi việc
kết thúc
Để có thống
kê đủ bảo đảm độ chính xác
Biên bản EPR [2] & [3]
Trong biên bản
BB84 ta thấy dường như mọi việc xuất phát từ
Trong biên bản EPR
Alice (hoặc nhờ một đối tác thứ 3 nào đó) có thể chuẩn bị những cặp EPR
rồi giữ lại một hạt còn hạt kia gửi cho
Bob. Từ lúc này thì quá trình ở đây là đối xứng đối với Alice và Bob. Những cặp
EPR mô tả nội dung của key mật mã. Tiếp theo đó Alice chuẩn bị một dãy
polarization settings (b) rồi đo hạt EPR của mình và thu kết quả (a) còn Bob
tương tự như vậy cũng đo hạt EPR của Bob trong một polarization settings mà Bob
tạo ra (b’) và thu kết quả (a’).
Sau đó Alice & Bob dùng phương tiện công cộng trao đổi
nhau (b) và (b’) và chỉ giữ lại những kết quả lúc b = b’ và ta trở về trường hợp biên bản BB84.
Kết luận
Thái độ không tin tưởng vào CHLT của Einstein lại dẫn
đến những phát hiện quan trọng đề hiều
CHLT thêm sâu sắc và người ta cũng không ngờ rằng những điều kỳ lạ của CHLT lại
là những điều kỳ diệu cho công nghệ tin học & thông tin hiện đại. Theo
hãng thông tấn Thomson Reuters (Mỹ) ba nhà vật lý: Alain Aspect (Pháp), John F. Clauser (Mỹ), Anton Zeilinger (Áo) nghiên cứu
liên đới lượng tủ đã nằm trong danh sách dự báo giải Nobel 2011, vì vấn đề
nghiên cứu này vừa là một vấn đề cơ bản của CHLT lại vừa liên quan đến công nghệ
tin học cho nên nhiều người tin rằng ba
nhà vật lý trên có hy vọng đoạt giải này
trong tương lai.
Cao Chi
Tài liệu
tham khảo
[1] Zeeya
Merali, Le test ultime de la mecanique quantique, La recherche No 455
tháng 09/2011
[
2 ] Michael A.Nielsen & Isaac L.Chuang , Quantum Computation and Quantum Information,
[3] Toney Hey & Patrick Walters, The new
quantum universe,
Nhận xét
Đăng nhận xét