THỜI GIAN
Thời gian phải chăng chỉ là một ảo tưởng?
Craig Callender
Craig Callender, giáo sư triết
học Đại học California,
Nhiều
thập kỷ qua các nhà vật lý và các triết gia không ngừng suy nghĩ về vấn đề thời
gian. Thời gian có tồn tại độc lập hay không? Tại sao thời gian lại phải có nhiều
tính chất khác nhau thay đổi từ cơ học cổ điển
Thời gian không tồn tại độc lập song là một phương
thức mô tả mối quan hệ giữa các đối tượng. Ý tưởng đó đã dẫn họa sĩ Keith
Peters đến bức tranh trên trong đó nhiều đường vòng chạy quấn quanh đối tượng
này sang đối tượng khác.
Các
khái niệm về thời gian và sự thay đổi của thời gian có thể đột sinh từ một vũ
trụ mà về cơ bản là phi thời gian tính. Thời diểm hiện tại được cảm nhận là đặc
biệt, hiện tại là hiện thực. Song khi bạn hồi tưởng lại quá khứ hay suy tưởng về
tương lai, bạn vẫn đang sống trong hiện tại. Lẽ dĩ nhiên thời quãng bạn đọc những
dòng chữ này không kéo dài lâu. Nói cách khác ta cảm thấy thời gian đang chảy
nhưng thực tế là hiện tại đang liên tục cập nhật.
Chúng
ta có một cảm nhận trực giác về sự định hình của quá khứ và sự hình thành của tương
lai chỉ khi nào hiện tại xuất hiện. Các
phương trình vật lý không nói cho chúng ta biết những sự kiện nào đang xảy (điều này trông giống một bản đồ mà không ghi rõ “bạn đang ở nơi nào”).
Như vậy thời gian hiện tại không có mặt trong các phương trình do đó cũng không
có dòng chảy của thời gian.
Sự
cách biệt trong suy nghĩ thông thường của chúng ta và cách hiểu thời gian trong
khoa học đã làm bối rối nhiều nhà tư tưởng suốt thời gian lịch sử.
Nhiều
nhà vật lý lý thuyết tin rằng thời gian không tồn tại.
Ý
tưởng thời gian không tồn tại quả là rất khó hiểu đối với trực giác. Mọi việc
chúng ta làm dường như đều thực hiện trong thời gian. Một lý thuyết không có thời
gian phải đương đầu với việc giải thích vì sao chúng ta thấy mọi sự thay đổi nếu
quả thật trong vũ trụ không có thời gian.
Mặc
dầu thời gian không tồn tại ở mức cơ bản song thời gian có thể xuất hiện ở những
mức cao hơn- hoàn toàn giống như một cái bàn trông như một vật rắn mặc dầu được cấu tạo bởi một tập các hạt kết
với nhau trong một không gian gần như trống rỗng. Như vậy tính rắn là một tính tập
thể, nói cách khác là một sự đột sinh (emergent) từ tập của các hạt. Tương tự
như vậy thời gian chính là một tính chất đột sinh bất kể đối với các thành phần
nào của vũ trụ.
Khái
niệm về sự đột sinh của thời gian là một thế cách mạng biểu diễn sự phát triển
của lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Các nhà vật lý lý thuyết
khi đeo đuổi mộng tưởng thống nhất đều xem vấn đề thời gian là vấn đề cơ bản. Họ
nghĩ rằng một lý thuyết thống nhất phải là một lý thuyết không có thời gian, và
cho rằng nếu không đi sâu vào tìm hiểu thời gian thì khó lòng xây dựng được lý
thuyết thống nhất.
Sự xuất hiện và biến đi của thời gian
Thời
gian đã đảm dương nhiều công việc trong vật lý song các công việc đó có thể càng
ngày càng biến mất đi.
Thời
gian cổ điển
Chúng ta sẽ lấy làm lạ khi các định luật chuyển
động của Isaac Newton đòi hỏi thời gian phải có nhiều tính chất rất đặc biệt. Mọi
người quan sát đều công nhận tính kế tiếp của nhiều sự kiện, trong vật lý cổ điển
chúng ta có thể nói rằng một sự kiện này xảy ra trước, sau hay đồng thời với một
sự kiện khác. Như thế thời gian cung cấp một phương tiện để xếp đặt thứ tự của
các sự kiện. Tính đồng thời của hai sự kiện là một điều tuyệt đối độc lập với mọi
người quan sát. Hơn nữa thời gian phải liên tục bởi vì có như thế thì chúng ta
mới định nghĩa được vận tốc và gia tốc. Thời gian cổ điển đòi hỏi khái niệm thời
quãng (duration)-mà các nhà vật lý gọi là metric-như thế chúng ta có thể xác định
được khoảng cách giữa hai sự kiện trong thời gian. Cũng giống như thứ tự các sự
kiện, thời quãng giữa hai sự kiện là một yếu tố độc lập với mọi người quan sát.
Như
vậy về thực chất
Thời
gian
Mũi
tên thời gian
Sau đó những tính chất này bị nhiều cuộc tấn
công vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế ký 20. Cuộc tấn công đầu tiên là từ phía nhà
vật lý người Áo Ludwig Boltzman: nếu các định luật
Thời
gian trong lý thuyết tương đối
Tiếp
theo là cuộc tấn công của Einstein về ý tưởng đồng thời (simultaneity) tuyệt đối:
theo lý thuyết tương đối thì sự đồng thời còn phụ thuộc vào chúng ta chuyển động
như thế nào.
Sân khấu chính thức của các sự kiện không phải
là thời gian mà cũng không phải là không gian mà là đa tạp tích hợp: không-thời
gian. Hai quan sát viên chuyển động với hai vận tốc khác nhau không thể
đồng ý với nhau rằng một sự cố nào đó xảy ra lúc nào và ở đâu song họ có thể đồng
ý với nhau rằng sự cố đó đã xảy ra tại tọa độ nào trong không-thời gian.
Một điều tồi tệ nữa lại xảy ra năm 1915 khi Einstein
xây dựng xong lý thuyết tương đối tổng quát thống nhất lý thuyết tương đối hẹp
với lực hấp dẫn. Hấp dẫn đã làm cong thời gian và như thế thời quãng một giây ở
đây không giống thời quãng một giây ở nơi khác. Ta khó lòng nói được một sự kiện
này xảy ra trước hay sau một sự kiện khác. Mặc dầu nhiều nhà vật lý cho rằng một
lý thuyết thống nhất sẽ có thể loại thời gian, thực tế thời gian đã mất đi từ năm
1915.
Cắt lát không-thời
gian để thấy thời gian có điểm khác biệt với không gian
Chúng
ta có thể nghĩ rằng sự khác biệt giữa không gian và thời gian gần như biến mất
và kịch trường chính thức của các sự kiện là một đa tạp 4 chiều . Lý thuyết tương
đối dường như không gian hóa (spatialize)
thời gian: biến thời gian thành một chiều của đa tạp đó. Không-thời gian giống
như một ổ bánh mì mà chúng ta có thể cắt lát theo nhiều chiều (xem hình 1).
Ngay
cả trong lý thuyết tương đối tổng quát thời gian vẫn giữ một nhiệm vụ khác biệt
để giúp phân biệt hai khái niệm “ đồng dạng
thời gian” (timelike) và “đồng dạng
không gian” (spacelike). Các sự kiện đồng dạng thời gian là những sự kiện nối
liền nhau bởi nguyên lý nhân quả: tồn tại những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi
từ sự kiện này đến sự kiện kia để gây nên nhân quả. Các sự kiện đồng dạng không
gian là những sự kiện không có dính dáng gì với nhau về nhân quả: không tồn tại
những vật thể hoặc ánh sáng có thể đi kịp từ sự kiện này đến sự kiện kia để đảm
bảo được nguyên lý nhân quả.
Hình 1.
Một quả bóng chuyển động và đập vào một bức tường nằm trong một khối tạo nên một không-thời gian.Có hai cách cắt lát
không-thời gian.
A / Trong cách thứ nhất (cách thông thường) ta cắt
không- thời gian (cắt ngang ) theo từng thời điểm tạo nên một cuốn phim mô tả
chuyển động của quả bóng Mỗi khung ảnh dẫn
đến khung ảnh tiếp sau theo đúng các định luật vật lý.
B
/ Nếu dùng phép cắt lát thứ hai (cắt dọc)
không theo hướng quá khứ tương lai mà theo hướng từ trái sang phải. Mỗi lát cắt vùa là một phần không gian vừa là
một phần thời gian. Bên trái bức tường quả bóng xuất hiện ở hai vị trí còn bên
phải bức tường quả bóng không xuất hiện.
A / Hãy cắt
lát không thời gian thành từng lát cắt từ quá khứ đến tương lai: mỗi lát cắt là
một không gian 3-chiều tại một thời điểm.Tổng
các lát cắt đó làm thành không-thời gian
4-chiều.
B / Song
nếu ta cắt theo một kiểu khác theo hướng đông tây thì mỗi lát cắt 3-chiều lại là
một hỗn hợp lạ lùng của các sự kiện đồng
dạng không gian và các sự kiện đồng dạng thời gian.
Hai
cách cắt lát này giống như cách ta cắt một ổ bánh mì theo chiều thẳng đứng hoặc
theo chiều nằm ngang.
Cách
cắt lát thứ nhất cho những hình ảnh không gian tại những thời điểm kế tiếp của
thời gian.
Cách
cắt lát thứ hai không có một hình ảnh tương tự nào: nó tương ứng với cách cắt
không thời gian không phải từ quá khứ đến tương lai mà từ phía đông sang phía tây.
Ví dụ của một lát cắt này là bức tường phía bắc của nhà bạn cộng với những điều
gì sẽ xảy ra trong tương lai trên bức tường đó và từ phép cắt đó bạn có thể áp
dụng những quy luật vật lý để tái lập các phần còn lại của cái nhà.
Thời gian lượng
tử
Một
mục đích tối thượng của vật lý là thống nhất lý thuyết tương đối rộng với lý
thuyết lượng tử để tạo nên một lý thuyết duy nhất: lý thuyết lượng tử của hấp dẫn.
Ta
gặp thêm nhiều rắc rối: lý thuyết lượng tử nói rằng các vật thể có nhiều cách hành
xử khác với trong vật lý cổ điển ví như vận tốc và vị trí. Sự mô tả của một vật
thể phải được thực hiện nhờ một hàm sóng biểu diễn trạng thái. Trạng thái này
tiến triển liên tục theo thời gian và nhờ đó các nhà vật lý có thể tính được xác
suất của điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Những điều này lại cho phép thời
gian có những tính chất mới [2].
·
Thứ
nhất thời gian lại cho phép những nghịch lý xảy ra với những xác suất nhất định.
Vậy thời gian cho phép sự tồn tại các nghịch lý.
·
Thư
hai tùy theo thứ tự các phép đo mà chúng ta có thể thu được những kết quả khác
nhau.
·
Thứ
ba cơ học lượng tử dẫn đến hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement).
Từ đó có hiện tượng ma quái tác dụng từ
xa (“spooky action at a distance”) trong nghịch lý ERP (Einstein, Rosen
& Podolsky). Như vậy theo Einstein
phải tồn tại đồng hồ chủ mà chính lý thuyết tương đối của ông ngăn cấm.
Các
nhà lý thuyết mong muốn loại bỏ thời gian khi xây dựng một lý thuyết thống nhất
nhưng lại bối rối vì vai trò quan trọng của thời gian trong lý thuyết lượng tử:
đó chính là nguồn gốc khó khăn trong quá trình hình thành một lý thuyết thống
nhất.
Vậy thời gian đi
đâu ?
Như
chúng ta biết có nhiều phương án thống nhất lý thuyết hấp dẫn với lý thuyết lượng
tử: Lý thuyết Dây (String theory), CDT (Causal Dynamical Triangulation ), Hình
học không Giao hoán (Non Commutative geometry ), LQG (Loop Quantum Gravity)...[3].
Các
phương án này được phân chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất lấy lượng tử làm cơ
sở như trong LTD (còn có thời gian), nhóm thứ hai muốn xuất phát từ lý thuyết hấp
dẫn (có thể thời gian bị loại). Thực tế sự khác biệt giữa hai nhóm này rất mờ.
Các nhà LTD đang tìm cách loại bỏ thời gian.
Vào
những năm 1950, 1960 khi John Wheeler và Bryce DeWitt tìm cách viết những phương
trình Einstein dưới dạng giống như những phương trình của QED (Quantum
Electrodynamics-Điện động lực học Lượng tử) cốt để sử dụng những phương pháp lượng
tử hóa quen thuộc của QED thì họ đã đi đến
một kết quả hết sức bất ngờ: phương trình
bây giờ dược gọi là phương trình Wheeler-DeWitt hoàn toàn không chứa thời gian.
Ký hiệu t biểu diễn thời gian đã bị loại mất. Điều này đã
làm bối rối các nhà vật lý trong nhiều thập kỷ. Sao mà thời gian lại biến mất?
Song nhìn lại ta thấy điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Như đã nói ở trên
thời gian đã gần như biến mất từ lý thuyết tương đối tổng quát trước cả lúc các
nhà vật lý có ý định thống nhất với lý thuyết lượng tử. Nếu nói một cách tường minh hơn thì thời gian
không tồn tại. Carlo Rovelli (Đại học Marseille, Pháp) cùng với nhà vật lý người
Anh Julian Barbour đã tìm cách viết lại lý thuyết lượng tử trong một khuôn khổ
không chứa thời gian như lý thuyết tương đối đòi hỏi. Ý tưởng chính của hai tác
giả là: nếu không tồn tại một thời gian tổng thể (global time) thì chúng ta cần
nối liền một hệ thống vật lý này với một hệ thống vật lý khác. Thay vì theo dõi
tóc trên đầu bạn đã bạc đi như thế nào theo thời gian bạn có thể nối liền quá
trình bạc tóc của bạn với quỹ đạo của vệ tinh. Thời gian trở nên thừa. Mọi sự
thay đổi có thể mô tả không cần thời gian.
(xem
hình 2a,2b).Tương tự như vậy tiền tệ thuận tiện hơn là trao đổi
hiện vật khi phải thanh toán một
cốc cà phê: thời gian thuận tiện trong việc nối liền một hệ thống vật lý này với
một hệ thống vật lý khác ví như quá trình bạc tóc với quỹ đạo vệ tinh. Và thời
gian quả là một ảo giác thuận tiện hơn bất cứ điều gì trong vũ trụ như đồng tiền
trong cuộc sống thường nhật. Song nếu loại bỏ thời gian thì chúng ta phải tư
duy lại lý thuyết lượng tử.
Hình
2a. Bên trái hình vẽ ta dùng thời gian để đo tốc độ ánh sáng, nhịp đập của quả
tim và vận tốc quay của một hành tinh và thu được theo thứ tự: 300.000 km / giây,73
nhịp đập / phút, 1vòng quay/ngày.
Bên
phải hình vẽ ta không dùng đến thời gian nữa và lấy một nhịp đập của trái tim làm
đơn vị thì thu được theo thứ tự: 240.000 km/nhịp đập, 1 nhịp đập và 108.000 nhịp
đập / 1 vòng quay.
Hình 2b. Bên trái hình vẽ ta dùng đôla $ để tính giá trị của
một cốc cà phê, 1 đôi giày và một chiếc ô tô đã qua sử dụng và thu được theo thứ
tự: 2$, 100$ và 2000 $.
Bên
phải hình vẽ lấy giá trị một cốc cà phê làm đơn vị ta thu được theo thứ tự: 1 cốc
cà phê,50 cốc cà phê / 1 đôi giày và 1000 cốc cà phê/một chiếc ô tô đã qua sử dụng.
Phục hồi thời
gian
Một
câu hỏi cấp bách là nếu chấp nhận hấp dẫn lượng tử thì phải giải thích vì sao vũ
trụ dường như có thời gian? Ngay lý thuyết tương đối rộng khi hấp dẫn yếu và vận
tốc nhỏ cũng có nhiều mẫu con thời gian mà tổng thể là một thời gian tựa
Năm
1931 nhà vật lý người Anh Nevill F.Mott xét sự va chạm của một hạt nhân helium
với một nguyên tử.Ông phân hệ thành hai hệ con và sử dụng hạt nhân helium như một
“đồng hồ” đối với nguyên tử còn lại. Điều đáng chú ý là nguyên tử xét tương đối
với hạt nhân helium tuân theo một phương trình chuẩn phụ thuộc thời gian của lý
thuyết lượng tử song ở đây một hàm số của không gian đóng vai trò của thời
gian. Tuy rằng toàn hệ là không phụ thuộc thời gian song các hệ con lại phụ thuộc.Như
vậy trong toàn hệ thời gian đã ẩn núp trong các hệ con (xem hình 2a,2b).
Toàn
vũ trụ có thể không có thời gian song hãy tưởng tượng vũ trụ bị phân chia thành
nhiều hệ con thì một số hệ con lại đóng vai trò “đồng hồ” cho các hệ con khác.
Chúng ta cảm nhận thời gian chỉ vì chúng ta theo bản chất là một hệ con.
Nhà
triết học Pháp Maurice Merleau-Ponty nói rằng thời gian bản thân thực tế không
chảy và sở dĩ ta cảm nhận dòng chảy của thời gian vì “ta đã lén đặt vào dòng sông
một chứng nhân của dòng chảy”. Như vậy khuynh hướng tin rằng thời gian đang chảy
là hệ quả của việc quên mất rằng chúng ta là một hệ
con với các mối liên hệ với vũ trụ trong bức tranh chung. Merleau-Ponty đã nói về
những trải nghiệm chủ quan của chúng ta về thời gian và đến bây giờ thì chúng
ta phải đoán nhận được rằng thời gian khách quan có thể giải thích được như là
hệ quả của những mối quan hệ giữa các hệ con của vũ trụ. Thời gian chỉ tồn tại
bằng cách phân chia vũ trụ thành những hệ con và tìm ra các mối quan hệ giữa chúng.
Trong bức tranh đó thời gian vật lý đột sinh từ việc chúng ta nhận thức bản thân
như một hệ tách rời với mọi thực thể khác.
Kết luận
Vậy
thời gian là không tồn tại độc lập. Ta cảm nhận dòng chảy của thời gian chỉ vì
ta là một hệ con có nhiều mối quan hệ với các hệ con khác trong vũ trụ. Cách nhìn
mới mẻ này có thể giúp các nhà vật lý trong việc xây dựng một lý thuyết thống
nhât hấp dẫn và lượng tử và các nhà triết học trong việc xây dựng một nhận thức
luận mới đối với không-thời gian và vật chất của thế giới khách quan.
CC biên dịch
Tài liệu tham khảo
[1]
Craig Callender, Is time an illusion? Scientific American, tháng 6/ 2010.
[2]
Cao Chi, Cơ Học Lượng Tử: từ quan điểm Einstein đến quan điểm tương
quan, KHTQ
số tháng 9 / 2008.
[3] Bạn đọc có thể tìm thấy các lý thuyết này
trong “Kỷ yếu Max Planck 2009 (Cao Chi ,
Tồn tại chăng một lý thuyết của tất cả)”
Độ trễ thời gian trong không thời gian tương đối tính tại một hệ quy chiếu Fermat trong một sự gỡ 'rối lượng tử’ - vai trò thăng giáng lượng tử ở gỡ ‘rối lượng tử’ tạo nên độ trễ thời gian thời trong không thời gian tương đối tính... (từ facebooker: Spin Giãn Nở).
Trả lờiXóa