VÌ SAO PHẢI THỐNG NHẤT CÁC LỰC TƯƠNG TÁC

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                   


     Sơ đồ thống nhất các hạt cơ bản dựa trên nhóm Lie E8 (Antony Garrett Lisi,Viện Khoa học Thái bình dương, Viện Vật lý lý thuyết Perimeter).

 

                     

 

Vì sao phải thống nhất các lực tương tác ?

                                                                                   

                                                                                                                         

                                      

 

Các lý thuyết vật lý hiện nay bất lực trong việc mô tả vũ trụ nguyên thủy khi vũ trụ  có nhiệt độ rất cao và mật độ vật chất rất lớn.Trong những điều kiện như vậy phải có một lý thuyết thống nhất các tương tác (điện từ, yếu, mạnh và hấp dẫn) gọi là TOE (Theory of Everything-Lý thuyết của tất cả). Sau đây HĐKH xin giới thiệu cùng bạn đọc  bài viết (có bổ sung) về vấn đề này của Etienne Klein  (Phòng thí nghiệm các khoa học vật chất CEA), Pourquoi il faut unifier les forces ?(Vì sao phải thống nhất các lực tương tác?), đăng trên tạp chí Les dossiers de la Recherche, Mai, No 43, 2011.                                       

 

Thống nhất các lực tương tác là vấn đề trung tâm của vật lý hiện đại. Những nhà vật lý kiệt xuất nhất đã tham gia vào công cuộc thống nhất này: Newton thống nhất lý thuyết chuyển động các thiên thể và chuyển động các vật thể trên mặt đất thành lý thuyết hấp dẫn cổ điển, sau đó Einstein sáng tạo lý thuyết tượng đối tổng quát mô tả hấp dẫn tương đối tính, Maxwell thống nhất từ học và điện học thành lý thuyết điện từ, Abdus Salam, Sheldon Glashow Steven Weinberg (giải Nobel năm 1979)  thống nhất lý thuyết điện từ với tương tác yếu thành lý thuyết điện yếu.

Sau đó lý thuyết GUT (Grand Unification theory-Lý thuyết thống nhất lớn) ra đời để thống nhất ba tương tác điện từ, yếu và mạnh (hai tương tác sau là tương tác hạt nhân). Khó khăn lớn nhất mà các nhà vật lý đối diện hiện nay là thống nhất 3 tương tác trên với hấp dẫn (xem hình 1). Trong nhiều thập kỷ nhiều lý thuyết ra đời song chưa lý thuyết nào thành công  trọn vẹn.

Những mô hình đầu tiên về Bigbang chỉ chú ý dến một lực trong thiên nhiên đó là hấp dẫn. Lực này là lực hút có tầm hoạt động xa vô cùng và là lực áp đảo ở kích thước lớn. Song càng lùi về dĩ vảng thì kích thước vũ trụ càng nhỏ dần và vật chất rơi vào những điều kiện vật lý rất đặc biệt với nhiệt độ rất cao, mật độ vật chất rất lớn mà riêng lý thuyết tương đối không mô tả được. Nói cách khác lý thuyết tương đối tổng quát chỉ mô tả được những thời đoạn muộn màng của vũ trụ. Làm thế nào để hiểu được những điều gì đã xảy ra lúc vũ trụ nguyên thủy ? Để xây dựng một hình thức luận có khả năng vượt qua các điều kiện của « bức tường Planck » phải nghiên cứu một thời đoạn đặc biệt cách đây 13,7 tỷ năm mà chưa có một lý thuyết nào có khả năng mô tả. Như chúng ta biết ở những vùng không gian nhỏ hơn độ dài Planck = (G / c3 )1/2  ~ 10 -33 cm những hiệu ứng lượng tử xuất hiện.

 

 

 

 


 

Hình1 . Sơ đồ thống nhất 4  loại tương tác: điện từ, yếu, mạnh, hấp dẫn.

 

Trong những điều kiện như vậy , không thời gian có cấu trúc kỳ dị.

Làm thế nào để xây dựng một lý thuyết « hấp dẫn lượng tử » nghĩa là xây dựng những phương trình thống nhất được lý thuyết lượng tử và lý thuyết hấp dẫn , như vậy thống nhất được 4 loại tương tác?

Đây là một công việc khó khăn vì không thời gian trong lý thuyết lượng tử là  phẳng và độc lập với phân bố vật chất , trong khi không thời gian trong lý thuyết hấp dẫn  có độ cong và có động học tương tác với vật chất và năng lượng tồn tại trong đó.

Nhiều lý thuyết đã xuất hiện nhằm thống nhất 4 loại tương tác : LTD, LQG, NCG, E8 ,...Bài báo này chỉ điểm qua 3 lý thuyết đầu tiên (còn để  hình dung  lý thuyết E8 xin xem hình vẽ dẫn nhập ở đầu bài báo).

 

LTD (Lý Thuyết Dây)  

 

Phải chăng lời giải cho việc thống nhất là có thể  áp dụng những phương pháp lượng tử hóa của lý thuyết lượng tử vào lý thuyết hấp dẫn ? Hay là tìm cách lai ghép chúng lại với nhau ? Hay tìm một lý thuyết vượt qua khuôn khổ của cả hai lý thuyết đó ? Những phương án này đều được nghiên cứu trong những năm 1970.

Vì đang đi vào ngỏ cụt cho nên các nhà vật lý cho rằng việc lượng tử hóa hấp dẫn có thể phải cầu cứu đến những tiên đề , những nguyên lý hoàn toàn mới như: số chiều dư (extra dimensions), sự tồn tại những hạt mới, những đối xứng mới, những cấu trúc toán học mới, những hình học mới.

Lý thuyết có nhiều triển vọng là lý thuyết dây (LTD)[1].

 

Lý thuyết dây (String theory – viết tắt là LTD) đang chiếm ngôi vị số một trên các trang báo khoa học về  thuyết lượng tử. Theo LTD, thực thể cơ bản  nhất không phải là hạt mà là dây. Đây là đối tượng một chiều, kín hay hở, có kích thước vô cùng nhỏ  10 -33 cm (xem hình 2) . Khi dây dao động thì các loại hạt  được tạo ra.

 

Trong LTD không thời gian được xem như một sân khấu cho trước. Ngoài 4 chiều không thời gian thông thường LTD cần đến 6 hay 7 chiều dư (extra dimension).

Các hạt như electron , proton , neutron … là những dao động của những dây hở , đầu mút các dây này bị dán vào một màng 3 chiều mà chúng ta ký hiệu là D3 [2] vốn là chỗ cư trú của thế giới chúng ta, trong khi đó graviton , lượng tử của hấp dẫn lại là dao động của những dây kín , không có đầu mút , cho nên graviton có khả năng thoát   khỏi màng D3 và truyền lan sang các chiều dư (extra dimension) khác.

 


 

 

Hình 2 . Bên trái thực thể cơ bản là một điểm không chiều chuyển động trong không thời gian, bên phải thực thể cơ bản là một dây một chiều như một cái vòng chuyển động trong không thời gian.

 

 

 

Ưu điểm của LTD bao gồm được cả lý thuyết tương đối tổng quát và lý thuyết trường lượng tử.

Đã 30 năm các nhà vật lý ưu tú nhất đổ xô vào phát triển LTD ( trong số đó Edward Witten nhận giải Fields) với hy vọng xây dựng một lý thuyết thống nhất, một lý thuyết của tất cả (Theory of Everything – viết tắt là TOE). Song dường như người ta đang đi vào bế tắc: không tìm được phương thức  thực nghiệm để kiểm chứng!

 

 

LQG (Lý thuyết hấp dẫn lượng tử vòng)

 

             


 

                Hình 3. Lee Smolin

 

Một phương hướng khác trong việc xây dựng lý thuyết thống nhất là lý thuyết LQG (Loop Quantum Gravity- Hấp dẫn lượng tử vòng) do Lee Smolin (hình 3) và nhiều tác giả khác phát triển [3]. LQG đặt lại vấn đề:  không thời gian là liên tục hay gián đoạn? LQG phát triển những phương pháp tính toán với không thời gian gián đoạn song cũng trong khuôn khổ các hình thức luận đã sử dụng trong lý thuyết lượng tử và lý thuyết hấp dẫn.  LQG giữ lại hai nguyên lý cơ bản của lý thuyết Einstein về không thời gian.

Nguyên lý thứ nhất là  nguyên lý về “ phông không thời gian”, phông không thời gian không phải là một sân khấu dựng trước độc lập với những vở kịch sẽ được trình diễn trên đó. Phông không thời gian là một thực thể vật lý mà cấu trúc và hình học của nó  phụ thuộc vào vật chất và năng lượng trình diễn trên sân khấu.

Nói cách khác  hình học của vũ trụ không là một hình học tiên quyết (khác với LTD-Lý thuyết dây được xây dựng trên một hình học định trước),

Nguyên lý thứ hai là nguyên lý bất biến đồng cấu (diffeomorphism) , điều đó có nghĩa là chúng ta có quyền lựa chọn bất kỳ một hệ tọa độ nào để ánh xạ không thời gian và các phương trình (nói cách khác không có hệ tọa độ nào là đặc biệt cả), hay nói cách khác người ta có thể sử dụng bất kỳ một hệ tọa độ quy chiếu nào. 

Kết hợp hai nguyên lý đó với các kỹ thuật tính toán của lý thuyết lượng tử các tác giả của LQG đã chứng minh được tính gián đoạn của không thời gian. Không thời gian trông giống như một miếng vải do nhiều mảnh dán với nhau làm thành. Sau đây là hình tượng nghệ thuật của không thời gian trong LQG (xem hình 4)

 

 

 

  


 

      Hình 4 . Một tranh nghệ thuật minh họa không thời gian trong LQG

 

 

Đặc trưng của LQG là tính gián đoạn của không thời gian. Sở dĩ LQG gọi là hấp dẫn lượng tử “vòng” vì trong LQG  không thời gian có cấu trúc như những vòng ở kích thước bé (xem hình 5). 

 

     


 

      Hình 5 . Lý thuyết tương đối gặp khó khăn vì cho rằng không thời gian là một continuum ( đa tạp liên tục). Lý thuyết LQG lại cho rằng không thời gian là một mạng lưới không liên tục của các “nguyên tử” không thời gian (các hình cầu trên hình vẽ). Đường kính của các hình cầu đó bằng độ dài Planck, ở vùng kích thước đó cường độ lực hấp dẫn ngang bằng với các hiệu ứng lương tử.

 

Những kết quả quan trọng của LQG :

-  toán tử thể tích có các trị  riêng (eigenvalue) làm thành một phổ gián đoạn và trị cực tiểu của thể tích  bằng 10 – 99 cm3   (lập phương của độ dài Planck),

- các  trị riêng của toán tử diện tích cũng làm thành một phổ gián đoạn với trị  cực tiểu bằng 10 – 66 cm2  (bình phương của độ dài Planck),

-  thu lại công thức entropy  lỗ đen của Bekenstein và lý thuyết bức xạ Hawking,

-  chứng minh rằng vận tốc ánh sáng không phải là hằng số mà phụ thuộc vào năng lượng của photon (kết quả này vi phạm lý thuyết tương đối của Einstein). Đây là một kết quả quan trọng suy ra từ cấu trúc gián đoạn của không gian, kết quả này cho phép  kiểm tra thực nghiệm lý thuyết LQG.

Trong LQG diện tích và thể tích đều bị lượng tử hóa điều này có nghĩa là diện tích và thể tích chỉ có được những trị số gian đoạn, bội số của những lượng tử cơ bản.

Lý thuyết LQG có nhiều triển vọng tuy nhiên LQG cũng chưa thống nhất được bốn loại tương tác.

 

 

NCG ( Hình hc không giao hoán): mt quan đim cách mng v không thi gian

 

                                                                                             

Alain Connes (hình 6), nhà toán học Pháp xuất sắc, sáng tạo ra Hình Học không giao hoán (Non-Commutative Geometry,viết tắt là NCG). Nhờ công trình này  và những công trình  liên quan ông được các giải lớn của toán học hiện đại: giải Fields năm 1982, phần thưởng nghiên cứu Viện toán Clay năm 2000, giải Crafoord năm 2001, huy chương vàng của CNRS năm 2004.  Ông là một trong những nhà toán học lớn đương đại.

Hình học không giao hoán đã làm một cuộc cách mạng trong quan niệm về không thời gian và có những ứng dụng vật lý  cơ bản, trong đó có vấn đề lớn của vật lý là  thống nhất lý thuyết hấp dẫn và lý thuyết lượng tử.

 

Ý tưởng chủ đạo của Alain Connes: tìm một hình học tinh tế trong đó các hạt như hạt Higgs (và các hạt khác) phải xuất hiện như một hệ quả  đương nhiên, chứ không phải  được đưa từ ngoài vào lý thuyết như trong Mô hình chuẩn. Hình học tinh tế Alain Connes đề cập ở đây  là hình học không giao hoán [4] &[5].

 

Thế nào là hình học không giao hoán ?

 

Chúng ta đều biết 3.4 = 4.3 nói cách khác hai số 3 và 4 giao hoán với nhau.Trong NCG, các tọa độ x và y không giao hoán với nhau,  nghĩa là x.y ¹  y.x, đây là điều mới lạ, không quen thuộc và khó hiểu đối với chúng ta. Chúng ta chỉ gặp những tình huống như vậy trong không gian pha của cơ học lượng tử , ví dụ các toán tử tọa độ x và xung lượng px không giao hoán với nhau mà thỏa mãn giao hoán tử {x, p x} = x.p x-p x.x =i.

 


 

 

 

 

Hình 6. Alain Connes (SN 1947), nhà toán học xuất sắc Pháp làm việc tai IHES (Institut des Hautes Etudes Scientifiques-Viện Nghiên cứu các Vấn đề Khoa học Cao cấp), giáo sư tại Collège de France và Đại học  Vanderbilt, người sáng tạo ra và có công đầu trong phát triển  hình học không gíao hoán.

 

Trong NCG người ta thay các tọa độ bằng một đại số A tác dộng lên không gian Hilbert H , và đưa thêm toán tử Dirac D để định nghĩa vi phân. Vậy một hình học không giao hoán được xác đinh bởi bộ tam (A, H. D). Như thế các tọa độ bây giờ trở thành những toán tử.

 

Với hình học không giao hoán Alain Connes đã đưa ra một quan niệm có tính cách mạng về không thời gian. Nhiều người so sánh sự đột biến quan niệm không thời gian gây nên bởi hình học không giao hoán với sự đột biến tư tưởng gây nên bởi lý thuyết nhật tâm (heliocentric) của Copernic và Galilée.

 

Trong vật lý các hạt cơ bản nhiều lúc người ta cần thiết phải đưa vào lý thuyết nhiều hạt để thỏa mãn những quá trình nào đó, ví dụ trong SM phải đưa vào hạt Higgs (hạt bí hiểm chưa tìm ra) để tạo nên khối lượng cho các hạt khác qua tương  tác Yukawa. Nếu sử dụng  hình học không giao hoán  thì những hạt tương tự  hạt Higgs sẽ xuất hiện như những hệ quả tự nhiên của cấu trúc hình học mới.

 

Chúng ta có hai thực tại cần được thống nhất:  hấp dẫn tuân theo đối xứng xác định bởi nguyên lý tương đương của Einstein, và vật chất gồm các hạt tuân theo đối xứng nội tại. Liệu có thể tìm một không gian  X tuân theo một đối xứng U bao cả hai đối xứng trên. Alain Connes chứng tỏ rằng một không gian X như thế phải là một không gian có hình học không giao hoán.

Ý tưởng rất sâu sắc của Alain Connes là muốn thống nhất hấp dẫn với lượng tử cần phải thay đổi cấu trúc của không thời gian và để làm điều đó ông đã sử dụng  hình học không giao hoán.

 

Theo Connes sự thống nhất hấp dẫn và lượng tử đòi hỏi một không gian gồm 2 phần: một phần liên tục và một phần gián đoạn không giao hoán.

 

Tính không giao hoán của không thời gian có thể là cơ sở cho việc xây dựng một lý thuyết thống nhất hấp dẫn  và lượng tử, trong đó mọi hạt đều xuất hiện một cách đương nhiên như là hệ quả của không thời gian không giao hoán [6].

 

Nhưng liệu có tồn tại chăng một lý thuyết thống nhất ?

 

                


 

 

 

Hình 7.  Gregory Chaitin, nhà toán học tại Trung tâm nghiên cứu Watson của IBM, New-York, người tìm ra số Omega

 

Để nhận thức quá trình xây dựng TOE, Gregory Chaitin, huy chương Leibniz, 2007, (xem hình 7) đã  gắn liền vấn đề hiểu vũ trụ với lý thuyết tin học và thiết lập mối quan hệ giữa vật lý và tin học và sư tương đồng giữa toán học và vật lý học. Gregory Chaitin đã ứng dụng nhiều định lý cơ bản nhất trong toán học  : định lý Kurt Godel  (Định lý  Không đầy đủ - Theorem of Incompleteness), định lý về bài toán dừng (halting problem) của Alan Turing để chỉ  chỉ ra những lỗ trống bất khả tri trong nhận thức luận.

Như vậy vật lý hiện đại đối diện với những vấn đề lớn như tính bất khả tri của vũ trụ. Và như thế liệu có tồn tại chăng TOE, một lý thuyết của tất cả?

Gregory Chaitin và không ít nhà khoa học cho rằng một lý thuyết như thế không tồn tại.

 

Kết luận

 

Hiện nay chưa có một TOE hoàn chỉnh nào cả song quá trình xây dựng lý thuyết thống nhất đã đẩy vật lý lên một tầm cao mới và cũng đặt ra nhiều quan điểm gây tranh luận, đòi hỏi xét lại những vấn đề cơ bản như không thời gian và nhiều vấn đề khác chưa có lời giải.

 

                                                                       CC. biên dịch và bổ sung

Tài liệu tham khảo

                            

[1] Matthew Chalmers, Stringscape, physicsworld.com, tháng 9/2007

[2] Dp-màng là màng p chiều mà các đầu hở của dây kết thúc với điều kiện biên Dirichlet (chữ D ở đây=Dirichlet)

[3] Lee Smolin, Atoms of Space and time, Scientific American, January2004

[4] Alain Connes, Non commutative geometry, Academic Press,1994

[5] Alain Connes, Non commutative geometry and Physics, ftp://ftp.alainconnes.org/

[6] Cao Chi, Vật lý hiện đại, những vấn đề thời sự từ Bigbounce đến vũ trụ toàn ảnh, nxb Tri thức, 2011.                                                   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH

VẬT LÝ và NGHỆ THUẬT