TƯỜNG LỬA QUANH LỖ ĐEN

 

 

 


 

Mô hình tường lửa quanh Lỗ đen

 

 

Để lý giải các nghịch lý entropy và thông tin Joseph Polchinski (Đại học California) đã đưa ra mô hình tường lửa quanh lỗ đen.Đó là một vành đai chứa những hạt cơ bản năng lượng cao có khả năng làm gẫy đứt mối liên đới lượng tử của  hạt rơi vào và thoát ra khỏi lỗ đen.Tường lửa này đã hòa lẫn hấp dẫn và lượng tử. Sau đây là bài viết của Polchinski đăng trên Scientific American số tháng 4/2015

                                                       

                                                                                        


                                                                                                             

 

                                                                              Joseph Polchinski 

 

 

Theo GR (General Relativity-Lý thuyết tương đối tổng quát) của Einstein thì không có dấu hiệu gì đặc biệt đột biến khi một nhà du hành vượt qua đường chân trời sự cố(event horizon)–tức ranh giới có đường vào mà không có lối ra của lỗ đen-xem hình 1. Khi rơi vào lỗ đen ta chỉ cảm thấy một quá trình rơi, rơi và rơi vào một cái hố đầy bóng tối.

Song tác giả Polchinski cùng đồng nghiệp, khi xét lại vấn đề dưới ánh sáng của những phát hiện mới, thì nhận được một bức tranh khác với bức tranh trên phác họa theo GR của Einstein. Nhà du hành rơi vào lỗ đen sẽ gặp phải một bức tường lửa chết người gồm các hạt cơ bản năng lượng cao tại đường chân trời sự cố.Bức tường đó rất có thể là chỗ kết thúc của không gian.

Tác giả cùng đồng nghiệp đã đi đến kết luận trên khi sử dụng LTD (Lý thuyết dây) và một lý luận sắc sảo của Hawking năm 1970.Hawking đã lưu ý đến hai bức tranh đối ngược nhau của  GR và CHLT (Cơ học lượng tử) tại những vùng cực đoan như vậy. Theo lý luận của Hawking hoặc GR hoặc CHLT  có chỗ sai sót.

 

Điểm kỳ dị

 

Theo GR nếu khối lượng một thiên thể đủ lớn thì sẽ phát sinh sự co lại của thiên thể đó vì hấp dẫn và cuối cùng ta có một lỗ đen.Sự co hấp dẫn này dẫn đến một điểm kỳ dị ở đấy không thời gian đậm đặc và có độ cong vô cùng.

Một phi hành gia rơi vào lỗ đen không thể thoát khỏi ra ngoài và bị kéo vào lỗ đen. Ngay cả ánh sáng khi bước qua khỏi đường chân trời sự cố của lỗ đen cũng không thể thoát trở lại ra ngoài được nữa.Theo GR một nhân vật rơi vào lỗ đen sẽ cảm thấy những định luật vật lý giống như ở những nơi khác khi nhân vật đi qua đường chân trời sự cố.

                                     

             

    

                                    


                       Hình 1. Lúc ánh sáng ở ngoài vùng tĩnh thì tia sáng có quyền đi theo hướng nào tùy thích. Khi lọt vào trong giới hạn tĩnh thì tia sáng còn khả năng thoát khỏi lỗ đen song chỉ có thể thoát về phía hướng theo chiều quay của lỗ đen. Càng xuống sâu đến vùng chân trời sự cố  thì nón ánh sáng càng chúc xuống cho nên khả năng thoát khỏi lỗ đen tuy vẫn còn nhưng giảm đi. Đến lúc lọt sâu sau chân trời sự cố thì ánh sáng mất khả năng thoát khỏi lỗ đen.

 

 

 

Bức xạ lỗ đen

 

Năm 1974 Hawking đưa ra một giả thuyết về bức xạ lỗ đen gây nhiều kinh ngạc trong giới vật lý .Nhiều cặp hạt sinh và hủy liên tục trong vũ trụ và nếu hiện tượng đó xảy gần lỗ đen ngay gần đường chân trời sự cố thì cặp hạt đó có thể tách rời nhau : một hạt rơi vào điểm kỳ dị một hạt thoát ra ngoài mang theo một phần khối lượng và ta có bức xạ Hawking. Nếu lỗ đen không cô lập thì khối lượng bù đắp từ bên ngoài là lớn hơn so với khối lượng mất đi vì bức xạ. Nhưng nếu lỗ đen cô lập thì lỗ đen dần bốc hơi. . Hiện tượng này dấy lên nhiều thách đố về các định luật vật lý trong lỗ đen. Hawking đưa ra hai điểm mâu thuẫn giữa CHLT và GR.

 

 

Bài toán entropy

 

Phổ bức xạ Hawking gợi ý rằng  lỗ đen phải có nhiệt độ.Nhiệt độ là do sự chuyển động các nguyên tử trong một vật thể nào đó. Nhiệt độ của lỗ đen buộc rằng  lỗ đen phải có một hạ cấu trúc (substructure)-một tập các

blốc cơ bản (hay bit) cấu tạo nên lỗ đen, tập này tự sắp xếp theo một cách nào đó. Jacob D.Bekenstein (Đại học Hebrew, Jerusalem) cũng đã đi đến kết luận đó.Khả năng các kiểu sắp xếp khác nhau dẫn đến  số đo mất trật tự và đó chính là entropy theo bức tranh CHLT của bức xạ Hawking.Entropy là thước đo của mất trật tự, entropy tăng khi số trạng thái của vật tăng và như thế số cấu hình sắp xếp các trạng thái tăng lên.Các công trình của Bekenstein và Hawking dẫn đến những công thức cho số bit , số đo entropy của lỗ đen.

Song entropy cho lỗ đen lại bị cấm bởi GR vì GR buộc rằng lỗ đen phải nhẵn hoàn toàn không có hạ cấu trúc nào cả.GR mô tả lỗ đen như một hình học nhẵn đều và chỉ rằng mọi lỗ đen cùng khối lượng, spin và điện tích phải trông giống nhau: và nói như Wheeler (Đại học Princeton) là “lỗ đen không có tóc”.Từ đây phát sinh một  mâu thuẫn: GR nói rằng lỗ đen không có tóc trong khi CHLT nói rằng lỗ đen có entropy lớn nghĩa là phải có tóc!

(xem hình 2).

 

Nghịch lý thông tin 

 

Theo CHLT thì thông tin được bảo toàn (vì tính unitarity), không bao giờ bị biến mất .Song bức xạ Hawking buộc rằng lỗ đen phá hủy thông tin của vật chất rơi vào lỗ đen vì các hạt thoát ra ngoài hoàn toàn không phụ thuộc vào các tính chất của các nguyên tử ban đầu rơi vào lỗ đen. Hawking gợi ý rằng CHLT phải được thay đổi để cho phép hiện tượng mất thông tin trong lỗ đen có thể xảy ra.

Bức xạ Hawking  gây nên một thách thức đối với CHLT. Ví dụ ta gửi một thông điệp vào lỗ đen thì ta không thu lại được thông tin trong thông điệp từ những hạt bay ra.Một thông điệp bay vào đường chân trời không thể ảnh hưởng đến mọi điều bay ra sau, bởi vì không thông tin nào thoát ra ngoài từ lỗ đen. 

Trong CHLT mọi hệ được mô tả bởi một hàm sóng.Trong thí nghiệm tưởng tượng của Hawking sự mất thông tin có nghĩa rằng chúng ta không có cách gì để tiên đoán hàm sóng của bức xạ Hawking dựa trên những tính chất của khối lượng đi vào lỗ đen. Song sự mất thông tin là điều cấm đối với CHLT do đó Hawking kết luận rằng những định luật vật lý phải thay đổi thế nào đó để chấp nhận hiện tượng mất thông tin này.

Ta có thể nghĩ rằng lỗ đen đã phá hủy thông tin-lỗ đen phá hủy mọi vật đi vào lỗ đen.Bây giờ hãy so sánh với ví dụ đốt một bức thư.Thông điệp trong bức thư bị phá hủy và thực tế khó lòng khôi phục lại từ khói tàn dư.Song theo CHLT khói có thể mô tả bởi hàm sóng phụ thuộc vào thông điệp ban đầu cho nên có thể khôi phục lại thông điệp từ hàm sóng.Trong trường hợp lỗ đen ta không có được một hàm sóng nào cho bức xạ cuối cùng.

Dựa theo ví dụ trên nhiều nhà lý thuyết cho rằng Hawking sai vì ông nhầm việc thông tin bị trộn rối với việc thông tin bị mất.

Một cách lý luận cho rằng lỗ đen cuối cùng sẽ để lại một tàn dư vi mô trong đó có lưu trữ mọi thông tin ban đầu.Song lý luận này dẫn đến một vật  vi mô lại chứa nhiều thông tin, như vậy sẽ mâu thuẫn với ý tưởng về entropy của Bekenstein-Hawking .

 

                


                      Hình 2.Mâu thuẫn giữa GR và CHLT

 

 

 

 

               


                                   Hình 3. Mô hình tường lửa

 

Trong cố gắng lý giải những nghịch lý trên các nhà vật lý tìm cách thống nhất GR và CHLT vào một lý thuyết có khả năng mô tả lỗ đen.Một hướng đột phá là LTD cho rằng hạt là sự dao động của dây.Dường như LTD đem đến hy vọng cho việc giải quyết bài toán entropy và nghịch lý thông tin.

 

 

LTD dẫn đến một kết luận khá ngạc nhiên: lỗ đen phải bị bao bọc bởi những tường lửa-tường của những hạt làm nghẽn mọi vật gặp phải chúng.Các bức tường lửa làm tan vỡ các định luật vật lý tại biên các lỗ đen và có thể dẫn đến những kết luận cực đoan , như tường lửa đánh dấu sự kết thúc của  không thời gian (xem hình 3).

 

Ý tưởng của tác giả  về tường lửa gặp phải thái độ nghi ngờ của nhiều nhà vật lý. Tác giả Polchinski lại tin rằng ý tưởng đó sẽ dẫn đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về GR & CHLT và cuối cùng giải thích được sự mâu thuẫn biểu kiến giữa CHLT & GR.

 

Lỗ đen và màng (brane)

 

 

LTD có khả năng đề cập đến những vấn đề khi CHLT và GR xung đột nhau như trong trường hợp lỗ đen. LTD được sử dụng để loại bỏ một số khó khăn khi tổng hợp CHLT và GR.

Một đột phá xuất hiện năm 1995 khi các nhà vật lý nghiên cứu dây ở những không gian rất nhỏ.Họ thấy rằng trong LTD tồn tại những đối tượng có số chiều lớn hơn 4 chiều gọi là những D-màng cuộn (wrap) trong những chiều ẩn khó phát hiện. Năm sau Andrew Strominger và Cumrun Vafa (Đại học Harvard) chứng minh rằng dây+D-màng tạo ra đúng số bit để tính entropy của lỗ đen ít nhất với một số hình học của lỗ đen. Như vậy nghịch lý được vén mở một phần.

 

Đối ngẫu AdS/CFT

 

Năm 1997 Juan Maldacena (Viện Princeton) phát hiện một cách tiệp cận vấn đề này-được gọi là đối ngẫu Maldacena (còn gọi là đối ngẫu AdS/CFT)-xem chú thích [1]. Maldacena chứng minh rằng CHLT+GR dựa trên LTD trong một vùng tương đương với một lý thuyết trường nhất định trên biên của vùng đó.Ở đây vật lý lượng tử của lỗ đen tương đương với vật lý của một khí các hạt nóng. Giống như một không gian 3-chiều chiếu xuống một hình cầu 2-chiều cơ bản hơn.

Maldacena (Đại học Harvard ) đưa ra kết luận: vùng 3-chiều của vũ trụ chúng ta có thể mô tả nhờ thông tin mã hóa trên biên 2-chiều, tương tự như ánh sáng laser có thể mã hóa không gian 3-chiều nhờ một hologram 2-chiều. Nói cách khác Vũ trụ là hình chiếu của thông tin nằm trên biên 2-chiều

Theo Maldacena thì vũ trụ 3-chiều chứa dây và lỗ đen điều khiển bởi hấp dẫn có biên là mặt 2-chiều trên đó các hạt cơ bản và trường tuân theo những định luật vật lý không có hấp dẫn . Maldacena đã tìm thấy cuốn tự điển cho phép tra cứu các hiện tượng trong  không gian 3-chiều diễn dịch sang không gian 2-chiều và ngược lại.

Như thế sự bốc  hơi của lỗ đen 3-D có thể mô tả bởi không gian 2-D trong đó không có hấp dẫn chỉ còn CHLT mà CHLT không cho phép thông tin mất đi (bảo toàn –do unitarity). Vậy nếu thông tin bảo toàn ở đấy thì trong thế giới 3-chiều thông tin cũng phải bảo toàn và thoát ra khỏi lỗ đen.

 

Câu hỏi tiếp theo về sự mất thông tin? Nếu Maldacena đúng thì thông tin không bị mất.Sau bốc hơi một lỗ đen không để lại một tàn dư nào cả vậy thông tin sẽ thoát ra ngoài cùng với bức xạ Hawking.Lý thuyết Maldacena là một tiếp cận với vấn đề thống nhất CHLT và GR và việc hóa giải nghịch lý về entropy và việc mất thông tin.

Vì kết quả đó của Maldacena mà Hawking (vốn chủ trương thông tin bị mất trong lỗ đen) tuyên bố thua cuộc trong vụ đánh đố với nhà vật lý John Preskill (chủ trương thông tin bảo toàn) ở Hội thảo về GR tại Dublin.

Song lý thuyết Maldacena cũng chưa cho ta thấy rõ bằng cách nào thông tin thoát ra ngoại vùng từ nội vùng của lỗ đen.

Sau gần 20 năm Leonard Susskind (Đại học Stanford)và Gerard’t Hooft (Đại học Utrecht) đưa ra một nguyên tắc gọi là nguyên tắc bổ sung (complementarity). Nguyên tắc nói rằng: người rơi vào lỗ đen thấy được thông tin phía trong còn người bên ngoài sẽ thấy thông tin thoát ra ngoài. Điều này không có mâu thuẫn vì 2 quan sát viên này không thể giao lưu với nhau được.

 

Tường lửa

 

Đối ngẫu Maldacena + nguyên tắc bổ sung cho lỗ đen dường như xua tan được các nghịch lý song nhiều chi tiết cần làm sáng tỏ.Ba năm sau nhóm AMPS (xem chú thích [2]) đưa ra mô hình dựa trên ý tưởng của Samir D.Mathur (Đại học Ohio), Steven Giddings (U.C. Santa Barbara), Samuel Braunstein (Đại học York).Trong quá  trình cải tiến mô hình, nhóm AMPS chú ý đến hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement). Hai hạt được gọi là liên đới lượng tử khi đo các đặc trưng của hạt này ta biết được các đặc trưng của hạt kia.Song nếu hạt A liên đới với hạt B thì không thể liên đới lượng tử với hạt C nào nữa (nói nôm na là có chế độ một vợ một chồng trong liên đới lượng tử ).

Theo quan điểm được nhiều người đồng thuận của Don Page và Leonard Susskin thì một hạt bức xạ  ra ngoài tại thời điểm t sẽ liên đới lượng tử với tất cả bức xạ Hawking đã bắn ra trước đó < t.

 

Trong lỗ đen lấy một hạt photon Hawking gọi nó là B và gọi hạt song hành bị rơi vào lỗ đen là A. A và B liên đới lượng tử với nhau.Tiếp theo thông tin rơi vào lỗ đen được mã hóa trong các hạt bức xạ Hawking. Bây giờ nếu thông tin không bị mất thì hạt photon thoát ra phải kết thúc vào một trạng thái lượng tử  xác định cho nên B phải liên đới với một hạt C nào khác đã bay ra ngoài (nếu không thì output không bảo toàn thông tin). Như vậy ta có mâu thuẫn ( vì có hiện tượng đa thê thay vì chế độ một vợ một chồng của liên đới lượng tử )

 

 

      


 

                    Hình 4. Muốn phá hủy liên đới lượng tử cần một tường lửa

 

Để giải quyết mâu thuẫn trên cần làm biến mất liên đới lượng tử giữa A và B. Sự mất liên đới lượng tử này đòi hỏi phải có năng lượng giống như sự phá vỡ liên kết hóa học cần năng lượng (xem hình 3). Phá vỡ liên đới lượng tử các cặp Hawking đòi hỏi sự có mặt của một bức tường các hạt năng lượng cao mà chúng tôi gọi là tường lửa (firewall). Một du hành vũ trụ khi cắt ngang đường chân trời sự cố không phải là cảm thấy mọi việc trơn tru như GR giả định mà gặp phải một điều gì đó mang tính thảm họa: đó là một tường lửa. Như vậy thay vì sử dụng nguyên tắc bổ sung tác giả đưa ra một điều gì đó trái ngược với GR. Nhiều nhà vật lý tỏ thái độ nghi ngờ ý tưởng của nhóm AMPS.

 

Sự kết thúc của không gian

 

Nếu tường lửa tồn tại thì đó là gì? Một ý tưởng minh giải : đó là sự kết thúc của không gian.Có lẽ điều kiện để hình thành không thời gian không tồn tại trong lỗ đen. Như Maroff nhận xét không thời gian nội vùng có thể không hình thành vì bộ nhớ của lỗ đen đã đầy rồi. Nếu không thời gian không thể tồn tại phía trong thì không gian đã kết thúc tại đường chân trời và nhà du hành vũ trụ khi chạm đường chân trời đã biến thành các bit lượng tử cư trú trên đường biên.

 

 Kết luận

 

Mô hình tường lửa của nhóm AMPS nhằm mục đích giải thích thông tin bảo toàn trong vấn đề lỗ đen. Mô hình này  cho phép lý giải được các nghịch lý entropy và thông tin.Đây quả là một mô hình mang tính đột phá (nếu không nói là duy nhất hiện nay-vì chưa có mô hình nào khác).Song cũng còn quá sớm để kết luận rằng mô hình này đúng với thực tế.

                                                                        CC.biên dịch và chú thích

Tài liệu tham khảo và chú thích

 

[1] Đối ngẫu AdS/CFT: một vũ trụ mô tả bởi lý thuyết siêu dây  (như vậy có hấp dẫn) trong một không-thời gian anti-de Sitter 5 chiều  tương đương với một lý thuyết trường lượng tử (không chứa hấp dẫn) CFT-conform field theory- trên mặt biên 4 chiều của không-thời gian đó .

 

[2] Mô hình tường lửa được xây dựng năm 2012 bởi Ahmed Almhein, Donald Marof , Joseph Polchinski và James Sully (viết tắt là AMPS)

 

 

 

 

 

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH

VẬT LÝ và NGHỆ THUẬT