LIÊN ĐỚI LƯỢNG TỬ TRONG CƠ HỌC LƯỢNG TỬ & HÌNH HỌC TRONG LÝ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI RỘNG
LIÊN ĐỚI LƯỢNG TỬ TRONG CƠ HỌC LƯỢNG TỬ và HÌNH HỌC TRONG LÝ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI RỘNG.
Hai nhà vật lý lý thuyết Juan Maldacena
(Viện nghiên cứu tiền tiến Princeton-Institute for Advanced Study in Princeton,
New Jersey) và Leonard Susskind (Đại học Stanford, Palo Alto) đã tìm ra mối
liên quan giữa hiện tượng liên đới lượng tử mô tả bởi cặp hạt EPR trong QM
(Quantum Mechanics-Cơ học lượng tử) và cấu trúc hình học lỗ sâu đục ER trong GR
(General Relativity-Lý thuyết tượng đối rộng).Họ biểu diễn mối liên quan đó
bằng công thức ER=EPR [1]. Vấn đề liên
đới lượng tử trong QM vì tính phi định xứ (non-locality) xưa nay vẫn gặp nhiều
khó khăn trong việc diễn dịch ý nghĩa vật lý thì nay đã có một cách hiểu kỳ
diệu theo hình học trong GR. Ngoài ra giả thuyết này còn giúp từ chối mô hình tường
lửa quanh lỗ đen gây tranh cãi của nhóm
các tác giả AMPS.
Việc đầu tiên là giải thích
công thức ER=EPR.
ER=(chữ cái đầu của Einstein
và Rosen) là ký hiệu của cầu ER (ER bridge) hay lỗ sâu đục (wormhole) nối liền hai lỗ đen trong GR, còn EPR=(chữ
cái đầu của Einstein, Podolsky, Rosen) là ký hiệu của mối liên đới lượng tử (quantum entanglement) nối liền hai hạt trong QM.
Một điều thú vị
là cả hai vế của công thức trên đều xuất phát từ hai bài báo mà bản thân
Einstein (cùng với các tác giả cộng sự) viết vào năm 1935. Hai công trình liên
quan đến hai hiện tượng rất khác nhau (GR & QM), và sau này Einstein cũng
không bao giờ nghĩ là chúng có thể có liên hệ gì với nhau. Vậy mà nay các nhà
vật lý đã tìm được mối liên hệ mà bản thân Einstein không hề nghĩ đến [1].
Về danh từ sử dụng: chữ tiếng Anh wormhole thường được
dịch là lỗ sâu đục hoặc lỗ giun, còn các chữ quantum entanglement thường được
dịch là liên đới lượng tử hoặc rối lượng tử, vướng mắc lượng tử, vướng víu
lượng tử.
1 / Liên
đới lượng tử
Thế nào là liên đới lượng tử
?
Một đặc tính của các trạng
thái lượng tử , khác biệt với các trạng thái cổ điển là hiện tượng liên đới
lượng tử, theo đó sự tương tác giữa các qbit (bit lượng tử) làm phát sinh
một sự chồng chất liên kết ( giao thoa ) các trạng thái lượng tử
. Sự chồng chất này không thể đưa về tích trực tiếp của các qubit riêng lẻ ,ví
dụ đối với 2 qubit ¹ Y 1 Ä Y 2 mà có những dạng trộn lẫn như sau :
| B00> = | 00 > +| 11 >
| B01> = | 01 > +| 10 >
| B10> = | 00 > - | 11 >
| B11> = | 01 > - | 10 >
Các trạng thái | Bmn> gọi là các trạng thái
Nếu xét đặc trưng lượng tử là
hình chiếu sz của spin chẳng hạn xuống trục z, thì m là hình chiếu của hạt thứ nhất , còn n là hình chiếu của hạt thứ hai . Vì ở
đây ta xét các qubit có khả năng lấy hai trị số cho nên m &
n = 0 (sz = ½, spin hướng lên trên ) hoặc 1 (sz
= -1 /2 , spin hướng xuống dưới ¯ ).
Ví dụ hãy thực hiện phép đo sz của hạt thứ nhất khi hệ nằm trong trạng thái
| B11>. Lẽ dĩ nhiên kết quả đo sẽ cho ta hoặc 1/2 hoặc - 1/2
với xác suất bằng nhau và giả sử thu được sz = 1/2 , sau phép đo này hàm của hệ rút về (
collapse ) thành hàm riêng ứng với trị riêng đo được :
| B11> à | 01 >
Do đó khi đo sz
của một hạt thứ hai ta chỉ thu được sz
= -1 /2 ( ứng với n = 1). Như vậy xuất hiện một điều kỳ lạ , trị riêng
đo được của hạt này lại phụ thuộc vào
trị riêng đo được của hạt kia , cho dù
rằng chúng được tách rời nhau đến vô cực ! Người ta nói rằng hai hạt EPR
là liên đới lượng tử .
Einstein đã gọi hiện tượng
này là một tác động ma lực ở khoảng cách
( spooky action at a distance ) . Đây là một hiện tượng thuần tuý cơ học lượng tử .
2
/Đối ngẫu AdS/CFT
Năm 1997 Juan Maldacena (Viện
Princeton) phát hiện một cách tiếp cận nối liền GR & QM-được gọi là đối
ngẫu Maldacena (còn gọi là đối ngẫu AdS/CFT, AdS=không gian anti de
Sitter,CFT=conformal field theory-lý thuyết trường conformal). Dựa trên LTD (lý
thuyết dây) Maldacena chứng minh rằng một lý thuyết có chứa GR trong nội vùng
của không gian AdS tương đương với một lý thuyết trường CFT trên ngoại biên của vùng đó. Điều này giống
như một không gian 3-chiều chiếu xuống một hình cầu 2-chiều.
Maldacena (Đại học Harvard )
đưa ra kết luận: vùng 3-chiều của vũ trụ chúng ta có thể mô tả nhờ thông tin mã
hóa trên biên 2-chiều, tương tự như ánh sáng laser có thể mã hóa không gian
3-chiều nhờ một hologram 2-chiều. Nói cách khác Vũ trụ là hình chiếu của thông
tin nằm trên biên 2-chiều .
Theo Maldacena thì vũ trụ
3-chiều chứa dây và lỗ đen điều khiển bởi hấp dẫn có biên là mặt 2-chiều trên
đó các hạt cơ bản và trường tuân theo những định luật vật lý không có hấp dẫn .
Nếu xét một lỗ đen thì chân trời sự cố của lỗ đen là biên
holographic chứa mọi thông tin về nội vùng của lỗ đen.
3 / Bức
xạ Hawking
Năm 1974, Hawking đưa ra lý
thuyết về bức xạ của lỗ đen: đó là bức xạ Hawking. Kết
quả lý thuyết xuất sắc này đã đưa Stephen Hawking lên hàng những nhà vật lý lý
thuyết lỗi lạc nhất của thời đại. Theo lý thuyết này, lỗ đen bức xạ giống như
một hòn than nóng , với nhiệt độ tỷ lệ nghịch với khối lượng. Ví dụ với một lỗ
đen có khối lượng bằng 10 12 kg thì nhiệt độ tương ứng sẽ là 10 12
độ Kelvin và lỗ đen sẽ bức xạ các
hạt không có khối lượng như photon và các hạt có khối lượng như electron,
proton .
Nếu một cặp hạt sinh ra trong
chân không của trường hấp dẫn, có thể xảy ra tình huống trong đó một hạt sinh
ra nằm dưới chân trời sự cố của lỗ đen, hạt này có năng lượng âm và người quan
sát bên ngoài không thấy được, hạt còn lại vượt hàng rào thế và đi ra vô cực.
Khi có hạt bay ra vô cực thì ta có hiện tượng bức xạ Hawking. Vì bức xạ, lỗ đen
tiêu hao khối lượng, vậy trọng trường nhỏ đi và nhiều hạt có cơ hội thoát khỏi
lỗ đen (hình 1)
Hình 1. Búc xạ Hawking: một hạt rơi vào
lỗ đen, một hạt bay ra vô cực
Hawking chứng minh rằng lỗ đen nói chung có khả năng bức xạ photon, neutrino, graviton giống như một vật đen bị đốt nóng đến nhiệt độ,
K- hằng số Boltzmann.
4 /
Tường lửa
của AMPS
Mô hình tường lửa quanh lỗ đen được xây dựng năm 2012 bởi Ahmed Almhein, Donald Marof , Joseph Polchinski
và James Sully (viết tắt là AMPS)[3].
Nhóm AMPS chú ý đến hiện tượng liên đới lượng tử trong bức xạ Hawking. Trong hiện tượng liên
đới lượng tử nếu hạt A liên đới với hạt B thì không thể liên đới lượng tử với
hạt C nào nữa (nói nôm na là có chế độ một vợ một chồng –MONOGAMY trong liên
đới lượng tử ).
Theo quan điểm được nhiều người đồng thuận của Don Page
và Leonard Susskin thì một hạt bức xạ ra
ngoài lỗ đen tại thời điểm t sẽ liên
đới lượng tử với một hạt của bức xạ Hawking đã bắn ra trước đó < t.
Trong lỗ đen lấy một hạt trong bức xạ Hawking gọi nó là B và gọi hạt song hành
bị rơi vào lỗ đen là A. A và B liên đới lượng tử với nhau.Tiếp theo thông tin
rơi vào lỗ đen được mã hóa trong các hạt bức xạ Hawking.
Bây giờ nếu thông tin không bị mất thì hạt photon thoát ra phải kết thúc
vào một trạng thái lượng tử xác định cho nên B phải liên đới với
một hạt C nào khác đã bay ra ngoài (nếu không thì output không bảo toàn thông
tin). Như
vậy ta có mâu thuẫn ( vì có hiện tượng đa thê thay vì chế độ một vợ một chồng
của liên đới lượng tử ).
Để giải quyết mâu thuẫn trên cần làm biến mất liên đới lượng tử giữa A và
B. Sự mất liên đới lượng tử này đòi hỏi phải có năng lượng giống như sự phá vỡ
liên kết hóa học cần năng lượng . Phá vỡ liên đới lượng tử các cặp Hawking đòi
hỏi sự có mặt của một bức tường các hạt năng lượng cao mà AMPS gọi là tường lửa
(firewall). Một du hành vũ trụ khi cắt
ngang đường chân trời sự cố không phải là cảm thấy mọi việc trơn tru như GR giả
định mà gặp phải một điều gì đó mang tính thảm họa: đó là một tường lửa. Nhiều nhà vật lý tỏ thái độ nghi ngờ ý tưởng
của nhóm AMPS.
5
/ ER
Các phương trình của Einstein
có một lời giải đặc biệt quan trong, đó là lời giải Karl Schwarzschild tìm ra
năm 1916.
Năm 1935, ở một trong hai bài
báo năm 1935 (đã nói đến ở phần đầu bài) , Einstein và Nathan Rosen, một cộng
tác viên của Einstein ở Viện Nghiên cứu Cao cấp ở
Hình 2 .Lỗ sâu đục hay cầu EP nối liền 2 không gian
Sự kết nối hình học mà
Einstein và Rosen tìm ra được gọi là “cầu Einstein-Rosen” (ER bridge), hay lỗ
sâu đục (xem hình 2 ).
Chiếc cầu nguyên thuỷ của ER
nối hai không gian độc lập. Tuy nhiên, ta có thể có những nghiệm giống như vậy
nhưng hai vùng được nối cùng thuộc về một không gian (xem hình 3 ). Chỉ cần
thay đổi một chút, nghiệm Schwarzchild có thể được diễn giải như là một nghiệm
chứa hai lỗ đen ở rất xa nhau nhưng bên trong lại nối với nhau [2].
Hình 3.Cầu EP nối liền 2 lỗ đen của
một không gian
Hãy tưởng tượng có một lỗ
đen ở gần trái đất và một lỗ đen gần sao Vega (xem hình 4). Nếu hai lỗ đen được
nối với nhau bằng một chiếc cầu ER, khoảng cách giữa trái đất và sao Vega nếu tính xuyên qua cầu ER lại
ngắn đi so với khoảng cách 25 năm ánh sáng theo đường ngoài lỗ đen.
Hình 4.Lỗ sâu đục dường như rút ngắn khoảng
cách giữa trái đất và sao Vega.Vega (α Lyr, α Lyrae, Alpha Lyrae) là sao thuộc quần thể Lyra, đây
là sao có độ sáng thứ năm trên bầu trời đêm và có độ sáng thứ hai trên bầu trời
bắc,cách trái đất 25 năm ánh sáng.
Tuy nhiên năm 1963, Robert W.
Fuller ở đại học
Như thế nếu Romeo (trên trái
đất) muốn gửi một thông điệp nhanh hơn tốc độ ánh sáng cho Juliet (trên thiên
hà Vega) , anh ta sẽ không thể làm được.
Cầu ER là một cầu không qua được (non-traversable).
Cần phải
nhấn mạnh là những lỗ sâu đục ER rất
khác những lỗ sâu đục gặp trong viễn
tưởng du hành theo thời gian (time
travel). Những lỗ
sâu đục này là đi qua được-traversable và đòi hỏi một loại vật chất có năng
lượng âm để duy trì (như trong thí nghiệm Casimir )[4] . ).
6
/ EP =EPR
Juan Maldacena và Leonard Susskind nghiên cứu hiện tượng
liên đới lượng tử của các trạng thái lượng tử của hai lỗ đen và đưa ra lý
thuyết về sự tồn tại một lỗ sâu đục thực sự giữa hai lỗ đen. Như vậy có một lỗ sâu đục trong AdS nối liền hai CFT liên đới lượng tử với nhau. Cầu
Einstein-Rosen (hay lỗ sâu đục) là biểu hiện của mối liên đới lượng tử. Các tác
giả trên ghi lý thuyết này bằng công thức ER=EPR.Nói cách khác cầu ER là một
loại liên đới lượng tử EPR.
Cũng theo Maldacena và
Susskind có thể tạo nên một liên thông bằng lỗ sâu đục giữa hai hạt lượng tử
như quark và phản quark (xem hình 5)
Hình 5. Hệ toàn ảnh quark-phản quark liên
đới lượng tử trong một cặp EPR
Trở về với bức
xạ Hawking và nghịch lý AMPS.
Về nguyên tắc
bức xạ Hawking có thể được thu thập lại và từ đó tạo dựng lại thành một lỗ đen
thứ hai, vậy ở đây ta có hai lỗ đen. Theo Maldacena và Susskind thì các trạng
thái lượng tử của hai lỗ đen liên đới lượng tử với nhau, như vậy giữa hai lỗ
đen có một lỗ sâu đục tức là một cái cầu ER (hình 6).
Trong lý
thuyết AMPS các hạt trong bức xạ Hawking
tưởng chừng như liên đới lượng tử một cách nghịch lý (paradoxically) vừa với lỗ
đen vừa liên đới với nhau (vi phạm nguyên lý monogamy ) thì giờ đây ta có 2 lỗ
đen nối liền với nhau bằng một lỗ sâu đục.Và tường lửa của AMPS không còn cần
thiết nữa.
Nội vùng lỗ đen
bây giờ được xác định nhờ liên đới lượng tử với bức xạ Hawking.
Liên đới lượng tử EPR và cầu ER được xem như hai mặt của
một đồng tiền.
Nhờ cầu ER nối hai điểm cách xa nhau trong không
gian, mỗi trạng thái vi mô
của lỗ đen thứ nhất có tương quan với trạng thái vi mô tương ứng của lỗ đen thứ
hai.
Hình 6. Cầu ER giữa
lỗ đen và bức xạ Hawking.
Khi đã có một lỗ sâu đục nối
liền hai lỗ đen (lỗ đen ban đầu & lỗ đen khôi phục lại từ bức xạ Hawking)
thì chúng ra không cần tường lửa của AMPS nữa vì nếu
ta quan sát được lỗ đen thứ nhất ở một trạng thái vi mô nhất định, thì lỗ đen
thứ hai cũng ở đúng trạng thái này.
7
/ Kết luận
Theo tài liệu [2] công thức ER=EPR tạm thời chỉ có có thể chứng minh chặt chẽ trong một vài
trường hơp cụ thể, nhưng có lẽ đúng trong trường hợp tổng quát. Ý tưởng
của Maldacena và Susskind về mối liên hệ giữa hình học và liên đới lượng tử có
thể là một nguyên tắc mà tất cả lý thuyết lượng tử của không-thời gian, hay hấp
dẫn lượng tử, phải tuân theo. Nguyên tắc này có những hệ quả quan trọng. Thậm
chí, một cách nào đó, có thể chính không-thời gian cũng xuất hiện ra từ sự liên
đới lượng tử của những thành phần vi mô cơ bản nhất của thế giới.
Một cách tự nhiên, ta có thể nghĩ là không-thời gian, một cấu
trúc liên tục, có thể bắt nguồn từ liên đới lượng tử. Ý tưởng này đang là tiêu
điểm của nhiều nhà nghiên cứu, nhưng còn chưa được tổng hợp lại thành một phát
biểu chính xác [2].
Cầu ER thuộc về cấu trúc hình
học trong GR trong lúc EPR thuộc cơ học lượng tử liên quan đến các trạng thái
vi mô lượng tử ( nếu phát biểu trên đối
ngẫu AdS/CFT thì ER liên quan đến AdS có d+1-chiều còn EPR liên quan đến CFT
trên biên d-chiều ).Ý nghĩa to lớn của công thức này là thiết lập được mối liên
quan giữa GR và QM. Và đây có thể chăng là một đầu mối mới trong quá trình xây
dựng lý thuyết thống nhất hấp dẫn và cơ học lượng tử ?
Cao Chi
Tài liệu tham khảo
[1]Juan Maldacena, Leonard
Susskind, Cool horizons for entangled
black holes, arXiv:1306.0533v2[hep-th] 11 Jul 2013
[2]Juan
Maldacena, Geometría y entrelazamiento cuántico , Investigación y Ciencia, số 11/2015)
[3] Joseph Polchinski , Mô hình tường lửa quanh lỗ đen,
Scientific American số tháng 4/2015
[4] Paul Davies ,How to build a time machine, Scientific
American số tháng 9/2002.
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=9178
Nhận xét
Đăng nhận xét