HẤP DẪN & VẬT LÝ HẠT CƠ BẢN GẶP NHAU
Khi lý thuyết hấp dẫn
và vật lý các
hạt cơ bản gặp nhau
David Kaiser
Tạp chí Scientific American số tháng 6 năm 2007 có đăng bài viết
của tác giả David Kaiser về vũ trụ học các hạt cơ bản (particle cosmology),
một ngành vật lý mới, có thể được xem
như kết quả tổng hợp của vũ trụ học và vật lý các hạt cơ bản, có khả năng cung
cấp nhiều thông tin về vũ trụ,về các hạt cơ bản và góp phần xây dựng một lý
thuyết thống nhất trong vật lý. Xin trân trọng giới thiệu bài viết trên
cùng bạn đọc.
Vũ trụ học các
hạt cơ bản là một vấn đề
nóng trong vật lý hiện nay. Tại Mỹ hướng nghiên cứu này được
cung cấp một kinh phí khoảng 1/2 tỷ USD
từ DOE (Department of Energy), NSF (National Science Foundation) và NASA.
Trước 1975 vật lý các hạt cơ bản và
vũ trụ học là hai hướng nghiên cứu hầu như riêng biệt, người ta chưa thiết lập
được mối liên hệ giữa hai hướng nghiên cứu này. Vào giữa những năm 1970 các nhà
vật lý cũng đã hiểu rằng vũ trụ lúc sơ sinh có những điều kiện cho phép nghiên
cứu các hạt cơ bản ở năng lượng cao, những điều kiện này chúng ta chưa thể tạo
ra được trên mặt đất trong các phòng thí nghiệm.
Một khâu cơ bản nhất trong việc
thống nhất hai hướng nghiên cứu: hạt cơ bản & vũ trụ học
thành hướng Vũ trụ học các hạt cơ
bản là việc phát hiện mối liên hệ giữa lý thuyết Brans-Dicke và lý
thuyết trường Higgs.
Khối lượng là một bản chất sâu kín của vật chất. Nhà vật lý và triết gia Mach người Áo đưa ra nguyên lý, sau được gọi là nguyên lý Mach, theo đó khối lượng là độ đo quán tính của vật chất đối với các nguyên nhân gây ra chuyển động và là kết quả của sự tương tác của vật thể đang xét với tất cả vật chất còn lại của vũ trụ.
Như vậy phải tồn tại một trưòng vô hướng để chuyển tải tương tác
hấp dẫn giữa mọi dạng vật chất. Trên cơ sở ý tưởng đó Carl Brans và Robert H.Dicke (đại học
Princeton) xây dựng lý thuyết Brans-Dicke. Trong lý thuyết Einstein cường độ
tương tác hấp dẫn xác định bởi hằng số Newton ký hiệu là G, hằng số này không
thay đổi theo theo không gian và thời gian.
Brans-Dicke đưa vào lý thuyết một
trường vô hướng f T 1/G, trường này biến đổi theo không
gian và thời gian . Trong lý thuyết Brans-Dicke vật chất sẽ biến động tùy thuộc
vào độ cong của không thời gian như trong lý thuyết Einstein và vào sự thay đổi của cường độ hấp dẫn từng
nơi. Trường f choáng đầy không gian và tham gia
quyết định chuyển động của vật chất trong không thời gian.
Lý thuyết Einstein nối liền không thời gian với vật chất trong
phương trình mang tên Einstein :
G ab =8pGTab
G ab mô tả hình học của không thời gian ,Tab mô tả vật chất .
Trong lý thuyết Brans-Dicke vế phải
của phương trình trên biến thành
8pGTab
+ các số hạng chứa trường f và
tham số w
(xem hình 1
& chú thích [1] ).
Tham số w
à một tham số không thứ nguyên, khi w
® ¥ ta sẽ có lại lý thuyết Einstein.
Sau đây f trong lý thuyết Brans-Dicke sẽ được
ghi là f
BRANS-DICKE .
Lý thuyết trường Higgs (vật lý các
hạt cơ bản)
Đối với các nhà vật lý các hạt cơ
bản thì khối lượng xuất hiện theo một cách khác. Họ xếp các lý thuyết hạt cơ
bản theo những đối xứng toán học. Ví dụ trong lý thuyết điện yếu (lý thuyết
thống nhất hai tương tác điện từ và tương tác yếu ) các hạt W và Z phải là
những hạt không có khối lượng mới bảo
đảm lý thuyết không vi phạm đối xứng, song trong thực tại hai hạt này có khối
lượng.
Trong những năm 1961 và 1964 Jeffrey Goldstone (đại học Cambridge) và
Peter Higgs đưa vào trường vô hướng f
với thế năng V (f)
có hai điểm cực tiểu tại –v & +v
(xem hình 1). Khối lượng sẽ xuất hiện trong quá trình hạt tương tác với f
, lúc f
tiến đến –v hoặc +v thì hạt thu được
khối lượng và do đó đối xứng bị phá vỡ
(đối xứng phải chứa cả -v lẫn +v). Nhờ lý thuyết phá vỡ đối xứng tự phát này mà
W & Z trở thành những hạt có khối lượng như
thực nghiệm đòi hỏi. Sự tồn tại của trường Higgs là
một yếu tố quan trọng của mô hình chuẩn ( Standard model ) , mô hình này
đã đưa ra những hệ quả được kiểm nghiệm trong thực nghiệm [2].
Sau đây f trong lý thuyết Higgs sẽ được ghi
là f HIGGS .
Hình 1 (xem bản dịch & chú thích hình 1 ở phía dưới )
Các công trình của Brans-Dicke
& Higgs được công bố gần như một lúc trên tạp chí uy tín là Physical
Review. Các công trình này là những công trình được tham chiếu nhiều nhất
trong mọi thời điểm.
Các nhà vật lý dần dần thấy mối liên
quan giữa hai lý thuyết trên vào giữa những năm 1970. Phải chăng hai trường
f
BRANS-DICKE
và f HIGGS có cùng một bản chất vật lý?
Nhiều hiện tượng chỉ có thể nghiên
cứu được ở năng lượng cao ví dụ trong lý thuyết GUT (Grand Unification Theory-
lý thuyết thống nhất các tương tác mạnh+yếu+điện từ) cường độ tương tác
của ba loại tương tác sẽ hội tụ về cùng một trị số tại vùng năng lượng 10 24
eV, như vậy các nhà vật lý phải nghiên cứu vũ trụ học tại những giai đoạn sơ
sinh để có những điều kiện của năng lượng cao. Điều này cùng với mối liên quan
giữa hai lý thuyết nói trên đã phôi sinh ra ngành vật lý mới : vũ trụ học
các hạt cơ bản (particle cosmology).
Anthony Zee (đại học Pennsylvania)
và Lee Smolin (đại học Harvard đã xây dựng lý thuyết tổng hợp lý thuyết
Brans-Dicke với lý thuyết Goldstone-Higgs. Trong lý thuyết này hằng số tương
tác hấp dẫn G T
1/ f2 và
biến đồi theo không gian và thời gian, sau
giai đoạn bigbang f
®
+v hoặc –v và vì v lớn cho nên hằng số hấp dẫn rất nhỏ.
Năm 1981 Alan Guth (đại học
MIT) đưa ra lý thuyết giãn nở lạm
phát để giải thích một số hiện tượng như
độ phẳng quan sát được của vũ trụ, lý thuyết này dẫn đến trường inflaton (tựa
trường Higgs) [3]. Như thế vũ trụ học các hạt cơ bản sẽ có các cơ sở lý thuyết
Brans-Dicke, Higgs và Guth (hình 2).
Hình 2 (xem bản dịch & chú thích hình 2 ở phía dưới )
CC. biên dịch
Tài liệu tham
khảo và chú thích
[1]
Các phương trình trong lý thuyết Brans-Dicke là
G ab = 8 pT ab /f + w ( ¶ af
¶ bf - ẵ g ab¶
cf ¶ cf )/f 2
+ ( ∇?a∇?bf - g ab□f
)/ f
□f = 8
pT /(3 +2 w) , T = vết của
tensor T ab
[2] Cao Chi, Einstein và vũ trụ lượng tử, trong
tuyển tập Einstein với khoa học & công
nghệ hiện đại - Hội vật lý thành phố Hồ Chí Minh, 2005
[3] Trường inflaton trong một phép
chuyển pha đã giải phóng thế năng và bức xạ để rơi về trạng thái cực tiểu về năng lượng. Quá
trình này gây một lực đẩy làm vũ trụ giãn nở cực mạnh trong giai đoạn 10 – 35 đến 10 -34 giây sau bigbang. |
Sau đây là bản dịch & chú thích cho các hình 1 và 2
CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ KHỐI LƯỢNG
Sau đây là những quan điểm khác nhau về khối lượng của
các nhà vật lý trong những năm 1960. Mặc dầu xây dựng những lý thuyết đồng dạng
nhưng ít người phát hiện được mối liên quan giữa hai hướng nghiên cứu.
----------------------------------------------------------------------------------------------
Vũ
trụ học: Lý thuyết hấp dẫn Brans-Dicke
Carl Brans Robert Dicke
Năm 1961
Carl Brans & Robert Dicke đưa vào lý thuyết trường vô
hướng f
tạo khả năng cho hằng số hấp dẫn G biến đổi theo không gian và thời gian. Một
vật (xem bên trái hình) có khối lượng
nhỏ vì hằng số G địa phương nhỏ- không
thời gian ở đấy ít bị cong vì hấp dẫn.
Vật khác (xem bên phải hình) có khối lượng lớn hơn vì G lớn hơn và không thời
gian tại đó bị cong nhiều hơn vì hấp dẫn.
của hằng số hấp dẫn
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Vật lý các hạt cơ bản: Trường Higgs
Goldstone
Năm 1961 Jeffrey Goldstone đưa vào trường f với thế năng V( f ) có hai điểm
cực tiểu tại các trị số –v và +v. Ba năm sau Peter Higgs sử dụng trường đó để
giải thích sự xuất hiện khối lượng. Các hạt có khối lượng bằng không khi
f biến đổi (xem bên trái hình), chúng thu được khối lượng
khi f rơi vào một điểm cực tiểu (xem bên phải hình).
TRẠNG THÁI
BAN ĐẦU TRẠNG THÁI CUỐI
Mật độ thế
năng trường Higgs Mật độ thế
năng trường Higgs
V( f
)
V( f )
đang biến đổi rơi vào
một cực tiểu
Các trị số của trường Higgs f Các trị số của
trường Higgs f
Hình 1
THIẾT LẬP MỐI LIÊN QUAN
ANTHONY ZEE
Zee làm việc với John Wheeler tại đại
học Princeton trong lĩnh vực hấp dẫn,sau đó nghiên cứu vật lý các hạt cơ bản.
Trong những năm 1970 Smolin nghiên cứu đồng thời vũ trụ
học và vật lý các hạt cơ bản tại đại học Harvard sau đó cộng tác cùng Stanley
Deser, một chuyên gia về hấp dẫn lượng tử tại đại học Brandeis.
Guth nghiên cứu vật lý các hạt cơ bản tại MIT (Massachusetts Institute of Technology), rồi chuyển sang nghiên cứu vũ trụ học sau khi nghe một số bài giảng của Dicke vào năm 1970.
Các giai đoạn tối quá trình giãn
nở
Hình 2
Nhận xét
Đăng nhận xét