VẬT CHẤT TỐI VÀ SIÊU CHẢY

 


 

Vật chất tối và chất lỏng siêu chảy (superfluid)

 

Vấn đề vật chất tối (DM-Dark matter) là một trong những vấn đề chứa nhiều bí ẩn trong vật lý hiện đại.70 năm đã trôi qua mà bài toán vật chất tối – một trong những bài toán cơ bản của vật lý - vẫn chưa có lời giải !

 

 

Vật chất tối là gì?

 

Có thể chế tạo nó trong phòng thí nghiệm được không? Một  phần lớn vật chất trong vũ trụ là vật chất tối, không có vật chất tối thì không có sao, có thiên hà có sự sống. Vật chất tối đã giữ chặt vũ trụ lại. Chúng ta có thể chế tạo được vật  chất tối trong các máy gia tốc?  Siêu hạt nhẹ nhất  trong siêu đối xứng, hạt nhẹ nhất chuyển động trong các chiều dư, hạt axion  trong lý thuyết QCD, có thể thuộc về vật chất tối?

 

 

Vào những năm 30 của thế kỷ trước Fritz Zwicky, một nhà thiên văn trẻ tuổi người Thuỵ sĩ lập nghiệp ở Mỹ, khi nghiên cứu chuyển động 7 thiên hà trong chòm Coma, nhận thấy rằng 7 thiên hà này chuyển động quá nhanh so với tính toán thực hiện trên cơ sở các khối lượng  quan sát được xung quanh. Muốn giải thích được chuyển động nhanh đó, xung quanh 7 thiên hà nói trên  cần phải có một khối lượng vật chất 400 lần lớn hơn khối lượng quan sát được,  nhưng  khối lượng thiếu này không tìm thấy ở đâu cả . Bài toán vật chất tối ( dark matter ) ra đời  (1933).

Như vậy trong vũ trụ có 4 thành phần : năng lượng tối  (dark energy) gây lực đẩy,vật chất tối (dark matter)  gây lực hút, các sao, các thiên hà và cuối cùng là các bức xạ. Vật chất tối có thể chiếm đến 30 % mật độ tới hạn (tức mật độ ứng với lúc không thời gian là phẳng).

Vật chất tối có thể là một loại vật chất mà chúng ta chưa hề biết đến.  Nhiều nhóm các nhà vật lý đã được thành lập để tìm kiếm, phát hiện vật chất tối như: nhóm CDMS (Cryogenic Dark Matter )  của Đại học Stanford , California, Mỹ, nhóm DAMA (Dark Matter Experiment) của Trung quốc – Ý và nhiều nhóm khác với những thiết bị hiện đại thường nằm sâu dưới lòng đất để loại bỏ phông nhiễu loạn ngoại lai.

Hiện nay người ta hình thành quan điểm sau. Vật chất tối gồm 2 thành phần .

Thành phần thứ nhất  là thành phần baryonic ( như vật chất thông thường ) gọi là MACHO ( Massive Compact Halo Objects ) vì người ta cho rằng quanh các thiên hà có một quầng (halo) vật chất tối, có thể phát hiện được nhờ những hiệu ứng thấu  kính hấp dẫn đặc trưng. Trong MACHO có thể có những sao lùn nâu ( brown dwarf ), những sao này không đủ lớn và nóng đến mức phát ra ánh sáng.

Thành phần thứ hai không phải là vật chất thông thường gồm những hạt mới lạ (exotic) chưa tìm ra được: axion, WIMPs, hạt đối xứng gương …

 

 


 


Axion là hạt giả định do nhà vật lý Peccei-Quinn đưa ra để giải thích hiện tượng phá vỡ đối xứng CP. WIMPs (Weakly Interacting Massive Particles) là những hạt suy ra từ siêu đối xứng tức đối xứng nối liền fermionboson, hạt nhẹ nhất trong các WIMPs là neutralino. Hạt đối xứng gương do Lee & Yang đề xuất.

Một số tác giả muốn phủ nhận sự tồn tại của vật chất tối, họ đưa ra cách tiếp cận sửa đổi định luật hấp dẫn của Newton (MOND-Modified Newtonian Dynamics), hướng nghiên cứu này dường như có ít triển vọng  (có khó khăn với lý thuyết tương đối của Einstein ).

Phát hiện  vật chất  tối là một trong những vấn đề cơ bản của vật lý

thế kỷ 21.

 

 Các thành phần năng lượng trong vũ trụ (hình 1)

   


 

 

      Hình I   Trong vũ trụ có năng lượng tối,vật chất tối và vật chất thông thường xếp thứ tự theo chiều kim đồng hồ trên hình vẽ. Vật chất có nhiều ở giai đoạn sơ sinh của vũ trụ. Trong quá trình giãn nở vật chất loãng dần và năng lượng tối dần  chiếm ưu thế và quyết định số phận của vũ trụ.

 

Trong vũ trụ có 3 thành phần quan trọng : năng lượng tối  ( dark energy ) gây lực đẩy,vật chất tối ( dark matter ) gây lực hút , vật chất thông thường ( các sao , các thiên hà, các bức xạ ). Sự biến thiên của tỷ phần của năng lượng tối / vật chất tối / vật chất thông thường theo thời gian  được trình bày ở Bảng 1.

 

 

Bảng 1

 

     Thời điểm

Năng lượng tối

Vật chất tối

Vật chất thông thường

 11,5 tỷ năm trước

    3,5 %

        80,4 %

        16,1 %

  7,5 tỷ năm trước

    22,6 %

         64,5%

         12,9%

     HIỆN TẠI 

    70 %

           25 %

             5 %

  11,5 tỷ năm sau

     95 %

            4,2%

          0,8 %

  24,5 tỷ năm sau

     99,3%

            0,6%

           0,1%

 

 



 

 

 Mô hình  MOND

 

Các quan trắc thiên văn cho thấy rằng các sao chuyển động quanh tâm các thiên hà với một vận tốc gần như không thay đổi  theo khoảng cách từ tâm các thiên hà; điều này trái với các tính toán theo thuyết hấp dẫn Newton và trái với các quan trắc trong Thái dương hệ (theo lý thuyết Newton vận tốc này phải giảm theo khoảng cách từ tâm các thiên hà). Người ta nói rằng vận tốc trở nên “phẳng – flat” (xem hình 2). Đây là bài toán chuyển động quay của thiên hà (galaxy rotation problem). Bài toán này đã dẫn đến giả thuyết tồn tại vật chất tối (dark matter) thâm nhập vào các thiên hà và trải rộng thành một quầng (halo) chung quanh thiên hà (theo  Fritz Zwicky). Khi giả thiết rằng có những quầng vật chất tối trong và xung quanh các cấu trúc thiên hà thì định luật quen thuộc 1/r2 của Newton được khôi phục.

 

                       


 

Hình 2 . Đường cong biểu diễn vận tốc trên quỹ đạo của một thiên hà xoắn ốc (spiral galaxy) tiêu biểu

 

Vật chất tối như trên đã nói không quan sát trực tiếp được vì không tương tác với vật chất thông thường.  Để loại bỏ được vật chất tối nhiều mô hình đã được đưa ra. Mô hình được nhiều người quan tâm là MOND ( Modified Newton Dynamics - Động học Newton Sửa đổi), xây dựng năm 1983 bởi  Mordehai Milgrom ( Weizmann Institute, Israel) .

Dùng MOND có thể chứng minh được rằng v= (GMa0 ) ¼,G-hằng số hấp dẫn, như thế vận tổc trên quỹ đạo không còn phụ thuộc vào r phù hợp với các quan sát thiên văn đối với vận tốc ở rìa những thiên hà.

Milgrom đã xác định được trị số a0 để  MOND cho lại lý thuyết hấp dẫn Newton đồng thời hiệu chỉnh lý thuyết Newton ở những khoảng cách nhất định để có được các kết quả phù hợp với quan trắc thiên văn mà không cầu cứu đến vật chất tối (xem hình 5).

 

Song mô hình MOND chỉ đúng trong phạm vi thiên hà còn trong kích thước của các cluster thiên hà thì MOND không đúng nữa .

 

MOND và DM

 

 

 

 

Nếu MOND và DM liên quan với nhau thì cần tìm một mô hình đúng cho mọi kích thước của vũ trụ.Người ta nghĩ đến ý tưởng không thời gian là một chất lỏng (fluid).Nếu là chất lỏng thì đó là chất lỏng gì?

 Hai tác giả Lasha Berezhiani and Justin Khoury đưa ra lý thuyết  DM là chất lỏng siêu chảy -Theory of Dark Matter Superfluidity [1] .

 Như chúng ta biết chất lỏng siêu chảy có 2 thành phần (Landau) :thành phần siêu chảy và thành phần normal không siêu chảy.  

Ở kích thước thiên hà thì DM có thành phần chính yếu là  thành phần siêu chảy  với độ dài liên kết ( coherence length ) bằng kích thước thiên hà

còn ở kích thước các cụm (cluster) thiên hà (ở đây nhiệt độ cao hơn) thì DM có thành phần chính yếu là thành phần normal [2].                   

 



 

Hình 3.Mô hình MOND chỉ đúng với các thiên hà riêng lẻ.Ở kích thước lớn hơn MOND không còn đúng.Để thống nhất lý thuyêt ở mọi kích thước cần có lý thuyết siêu chảy với 2 thành phần

 

 

 

 Hai tác giả đưa ra tiên đề (postulate) rằng DM phonon được mô tả bởi hàm tác động ( action) phi tương đối MOND                              

  





 

 

Và như thế phonon siêu chảy tương tác với vật chất baryon và tạo nên một lực tựa MOND.

.

Vậy các hạt trong thiên hà chịu 2 tác động: lực Newton và lực gây nên bởi các phonon.

Chú ý DM siêu chảy có nhiệt độ và phương trình trạng thái giống như hệ nguyên tử lạnh do đó mở khả năng nghiên cứu thiên hà trong phòng thí nghiệm.

 

Truy tìm siêu chảy trong vũ trụ

 

Bước tiếp theo của hai tác giả là truy tìm dấu vết siêu chảy trong vũ trụ. Hai tác giả lưu ý rằng chất lỏng siêu chảy khi quay thì phát sinh những tâm cuộn xoáy (vortex). Những quầng halo DM siêu chảy trong vũ trụ khi quay phải để lại những vortex mà chúng ta có thể quan sát được. [2]

 


 

Hình 4. Các tâm cuộn xoáy (vortex) trong siêu chảy

 

 

Kết luận

 

Hiên nay lý thuyết DM siêu chảy là lý thuyết hợp lý nhất để mô tả DM trong vũ trụ ở mọi kích thước (thiên hà và cụm thiên hà).

 

 

Tài liệu tham khảo 

[1] Lasha Berezhiani and Justin Khoury ,Theory of Dark Matter Superfluidity

arXiv:1507.01019v2 [astro-ph.CO] 23 Mar 2016

[2] Jennifer Ouellette

Dark Matter Recipe Calls for One Part Superfluid

https://www.quantamagazine.org/dark-matter-recipe-calls-for-one-part-superfluid-20170613/

 

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH

VẬT LÝ và NGHỆ THUẬT