SIÊU DẪN -tác giả THÂN ĐỨC HIỀN
SIÊU DẪN
(xin phép anh Thân Đức Hiền được giới thiệu bài viết rất hay của anh về SIÊU DẪN với các bạn đọc )
Lời nói đầu
Chất
siêu dẫn đầu tiên được phát hiện cách đây hơn 100 năm. Nhiều loại vật liệu siêu
dẫn đã được tìm ra. Gần 50 năm sau khi phát hiện, các nhà khoa học đã giải
thích hiện tượng kỳ thú này bằng lý thuyết vi mô. Vật liệu siêu dẫn đã và đang
có nhiều ứng dụng quan trọng trong công nghiệp và đời sống.
Vật liệu siêu
dẫn đóng vai trò không thể thiếu được đối với việc thiết kế, chế tạo và đưa vào
hoạt động thiết bị gia tốc đối chùm hadron khổng lồ (LHC).
Nội dung
1. Các vật liệu siêu dẫn.
2. Các tính chất cơ bản của vật
liệu siêu dẫn.
3. Lý thuyết lượng tử (BCS) giải
thích hiện tượng siêu dẫn.
4. Các chất siêu dẫn loại II.
5. Ứng dụng vật liệu siêu dẫn
trong máy gia tốc đối chùm hadron khổng lồ (LHC).
Tài liệu tham khảo.
1. Các vật liệu siêu dẫn
Thủy ngân (Hg)
là chất siêu dẫn được Kamerling – Onnes (trường đại học Leiden, Hà Lan) phát hiện
đầu tiên vào năm 1911 khi đo sự phụ thuộc điện trở của nó vào nhiệt độ. Tại nhiệt
độ T ≤ 4,2K điện trở của Hg bằng không → Hg chuyển từ trạng thái thường sang trạng thái siêu dẫn khi hạ nhiệt độ. Vào
thời gian đó,
Nhận thấy rằng, các chất siêu dẫn là các kim
loại nguyên chất (khoảng 30 kim loại trong bảng tuần hoàn các nguyên tố), các hợp
kim hai, ba nguyên,... Cho đến giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Tc
cao nhất của các chất siêu dẫn là hợp kim Nb3Ge với Tc =
23,2K. Do đó, các nghiên cứu và ứng dụng siêu dẫn phải dùng đến heli lỏng - chất
hiếm và đắt tiền. Người ta gọi các chất siêu dẫn này là siêu dẫn nhiệt độ thấp.
Năm 1986 J.
G. Bednors và A. Müller (phòng thí nghiệm hãng IBM ở Thụy sỹ) đã tổng hợp đươc
chất siêu dẫn chứa latan, bari, oxy và đồng (Cu) với Tc ≈ 37 K, và ngay
sau đó, hàng loạt hợp chất siêu dẫn chứa oxy và Cu được chế tạo với Tc
trên nhiệt độ sôi của nitơ lỏng (77K).
Các nhà khoa học gọi các vật liệu này là siêu dẫn nhiệt độ cao (hình 1), và có thể
dùng nitơ lỏng (khá dẻ tiền ≈ giá bia hơi) để
nghiên cứu và ứng dụng. Một số phòng thí nghiệm ở Việt nam đã có cơ hội nghiên
cứu các chất siêu dẫn nhiệt độ cao từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước.
Hình 1. Sơ đồ về phát hiện các chất siêu dẫn
theo thời gian
Một năm sau
khi phát hiện chất siêu dẫn lọai mới (1987) Bednors và Müller
được trao giải Nobel về phát minh có tính đột phá này. Mươi năm lại đây,
người ta còn thấy các hợp chất chứa C60 (fullerence) chuyển sang trạng
thái siêu dẫn ở nhiệt độ dưới 40 K và ống nano cacbon trở thành siêu dẫn ở vùng nhiệt độ thấp.
Ngòai ra, các nhà khoa học còn phát hiện ra siêu dẫn ở một số chất hữu
cơ với nhiệt độ chuyển pha cao nhất khoảng
12K (hình 1). Trước đây, các chất siêu dẫn có Tc ≥ 40K đều chứa các nguyên tử đồng
(gọi là siêu dẫn loại cuprate) nhưng cách đây không lâu người ta đã thấy các hợp
chất không chứa Cu là siêu dẫn như MgB2 (Tc=39K) và hợp
chất chứa sắt (Tc = 57K) (hình 1). Việc nghiên cứu để tìm ra các chất
siêu dẫn mới với hy vọng nâng cao nhiệt độ Tc và các đặc tính ưu việt
khác vẫn được nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới thực hiện.
2. Các tính chất cơ bản của vật liệu siêu dẫn
Như trên đã
thấy, các chất siêu dẫn là rất đa dạng về thành phần, cấu trúc, độ dẫn điện ở
trạng thái thường và phương pháp chế tạo. Tuy nhiên, vật liệu siêu dẫn phải có 2 tính chất rất đặc trưng là, tại nhiết
độ dưới nhiệt độ Tc (đối với từng chất) điện trở suất (hay điện trở) bằng không và từ trường (hay cảm ứng từ) ở
bên trong chất siêu dẫn bằng không. Ta hãy xét một cách chi tiết hơn 2 đặc tính
này.
2.1 Điện trở bằng
không
Hình 2.1. Sự phụ thuộc điện trở suất vào nhiệt
Hình 2.2. Nhiệt độ chuyển pha siêu dẫn
độ của các kim loại sạch và không sạch của thiếc sạch và không sạch
Điện trở của kim loại giảm dần khi hạ nhiệt độ.
Tại 0K kim loai có tạp chất xuất hiện điện
suất trở dư (ρ0), còn với kim loại sạch, không có khuyết tật, điện
trở suất dư bằng không (hình 2.1), nhưng đây không phải là chất siêu dẫn, chỉ
là chất dẫn điện lý tưởng mà thôi. Với chất siêu dẫn, điện trở suất bằng không ở
dưới nhiệt độ Tc (Tc > 0K). Tuy nhiện, độ suy giảm điện
trở suất về không ở gần nhiệt độ chuyển pha phụ thuộc vào độ sạch của vật liệu
(hình 2.2). Như vậy là, ta có thể nghĩ ngay đến việc dùng chất siêu dẫn để tải
điện không có hao phí năng lượng do hiện tượng tỏa nhiệt (W = RI2t).
Thực tế, các chất siêu dẫn đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như: tải điện,
biến thế, mô tơ siêu dẫn, tích điện năng, tạo từ trường cao trong phòng thí
nghiệm, cuộn dây siêu dẫn tạo từ trường trong thiết bị chụp ảnh bằng công hưởng
từ (MRI), tạo từ trường trong thiết bị gia tốc các hạt điện tích,...
2. 2. Hiệu ứng
Meissner - siêu dẫn là chất nghịch từ lý
tưởng
Một đặc tính
quan trọng khác và cũng là điều kiện đủ để xác định vật liệu là siêu dẫn hay
không là, từ trường (hay cảm ứng từ) ở bên trong vật liêu siêu dẫn bằng không,
nói một cách khác, từ trường bị đẩy ra ngoài chất siêu dẫn (hình 3.1) . Đó là
hiệu ứng Meissner, do
Có hai loại vật
liệu siêu dẫn, siêu dẫn loaị I (bao gồm hầu hết các kim loại nguyên chất) và
siêu dẫn loại II (gồm các hợp kim và hợp chất). Hiệu ứng Meissner được quan sát
đầy đủ đối với các chất siêu dẫn loại I.
Hình 3.1. Từ trường bị đẩy ra ngoài Hình 3.2.
chất siêu dẫn loai I nhiệt
độ cao
Như vậy
là, độ cảm từ của chất siêu dẫn có giá trị tuyệt đối lớn gấp 4-5 bậc so với các
chất nghịch từ thông thường (Cu, Ag, Au,..), nên siêu dẫn được gọi là chất
nghịch từ lý tưởng.
Ta biết
rằng, đặt chất nghịch từ vào trong từ trường nó sẽ bị đẩy ra do hiệu ứng cảm ứng
điện từ. Với chất siêu dẫn, do độ cảm từ có giá trị tuyệt đối lớn nên hiệu ứng
trên xẩy ra mạnh hơn nhiều. Dưới tác dụng của từ trường ngoài, trên bề mặt chất siêu dẫn xuất hiện các dòng điện cảm ứng
(siêu dòng) tạo nên từ trường ngược và bù trừ với trừ trường ngoài ở bên trong
chất siêu dẫn và nam châm vĩnh cửu có thể nổi trên chất siêu dẫn (hình 3.2).
Tính chất này của các chất siêu dẫn đã được ứng dụng để tạo các động cơ điện
không tiếp xúc, nghiên cứu chế tạo và thử nghiệm tầu hỏa chạy trên đệm từ (Magnetic
Levitation – MAG-LEV) tốc độ cao, không ô nhiễm môi trường,...
Cần lưu ý rằng, trạng thái siêu dẫn của các
chất chỉ xuất hiện dưới nhiệt độ tới hạn (Tc), từ trường tác dụng nhỏ
hơn từ trường tới hạn (Hc) và dòng điện qua dây dẫn nhỏ hơn dòng điện
tới hạn (Jc). Các thông số trên đặc trưng cho từng chất.
3. Lý thuyết lượng tử (BCS) giải thích hiện tượng siêu
dẫn
Ngoài hai đặc tính cơ bản nêu trên, bằng thực nghiệm,
các chất siêu dẫn còn có các tính chất đặc
biệt khác làm cơ sở để giải thích hiện
tượng siêu dẫn.
3.1 Các đặc
tính khác của chất siêu dẫn
* Nhiệt dung điện tử:
Tại nhiệt độ T = Tc, nhiệt dung chất siêu dẫn
có dị thường, đó là chuyển pha loại II.
Phân tích kết quả đo nhiệt dung của một số chất siêu dẫn thấy, nếu như T
>Tc, nhiệt dung điện tử phụ thuộc tuyến tính vào nhiệt độ (biểu
thức 3) nhưng khi T < Tc thành phần này lại giảm về không theo hàm mũ (biểu thức 4).
Thành phần thứ nhất và thứ hai ở vế phải của 2
biểu thức trên là nhiêt dung mạng tinh thể và nhiệt dung điện tử, tương ứng, trong
đó A, a, b, g là các hằng số đối với từng
kim loại, qD là nhiệt độ
Debye.
Rõ ràng là, mạng tinh thể không có biến đổi
khi qua nhiệt độ chuyển pha Tc, trong khi đó tính chất
của điện tử dẫn thay đổi khi chuyển từ trạng thái thường sang trạng thái siêu dẫn.
*Trật tự xa.
Các nghiên cứu về biên ngăn cách trạng thái
thường và siêu dẫn của các chất thấy, các
điện tử ở trạng thái siêu dẫn có liên kết với nhau ở khỏang cách cỡ10-4cm
(≈104
ô mạng tinh thể), gọi là đô dài kết hợp (x). Điều này chứng tỏ hiện tượng siêu dẫn là hiệu ứng tập
thể và trật tự xa của các điện tử dẫn.
*Hiệu ứng đồng vị.
Thực nghiệm đã chỉ ra rằng, Tc của
các chất siêu dẫn có các đồng vị khác nhau thì khác nhau, trong nhiều trường hợp,
Tc tỷ lệ nghịch với căn bậc 2 của khối lượng chất đồng vị (Tc
~ m-1/2). Vậy là, mạng tinh thể có liên quan tới nhiệt độ chuyển pha siêu dẫn của vật liệu.
*Khe năng lượng.
Trạng thái siêu dẫn bị phá vỡ chuyển sang trạng
thái thường khi đặt từ trường tác dụng có
cường độ H ≥ Hc (từ trường tới hạn). Với các chất siêu dẫn loại I, Hc
có giá trị nhỏ (cỡ vài trăm Oe) còn các chất siêu dẫn loại II, Hc có
giá trị lớn, đôi khi lên tới hàng chục Tesla ( 1Tesla (T) = 104
Oe).
Đo độ
phản xạ và hấp thụ sóng siêu cao tần của một số chất siêu dẫn loại I gồm kim loại
Hg,Ta và In thấy, tại T = 1,3K với tần số trên 3.1011Hz, các chất
siêu dẫn này chuyển sang trạng thái thường.
Từ các
kết quả nêu trên, có thể giả định rằng, trong chất siêu dẫn tồn tại khe năng lượng
của các phần tử tải điện.
3.2 Lý thuyết vi mô giải thích hiện tượng siêu dẫn - lý thuyết BCS
Cuối những năm 50 của thế kỷ trước ba nhà khoa học Mỹ
là J. Bardeen, L.N.Cooper và J.R. Schriffer (BCS) đã thành công trong việc giải thích hiện tượng siêu dẫn bằng lý thuyết vi mô và được
tặng giải Nobel vào năm 1972.
Như
trên đã đề cập, mạng tinh thể của chất siêu dẫn không thay đổi khi chuyển từ trạng
thái thường sang siêu dẫn. Tuy nhiên, theo BCS, mạng tinh thể lại đóng vai trò cực kỳ quan trong trong việc tạo
nên liên kết giữa các điện tử dẫn với nhau.
Các điện tử dẫn trong kim loại ở trạng thái
thường có mật độ vào cỡ 1023 điện tử /cm3 không tương tác
với nhau được gọi là khí điện tử tự do.
Theo BCS, trạng thái siêu dẫn xuất hiện trong kim loại là do có sự tương tác (hút) giữa các điện tử dẫn thông qua việc trao đổi phonon (lượng tử dao động mạng). Hình 4 là mô hình tương tác giữa 2 điện tử A và B do mạng tinh thể làm trung gian. Trong mạng tinh thể, các nút mạng là ion dương dao động quanh vị trí cân bằng. Vùng lân cận nút mạng là các điện tử tự do chuyển động. Một trong các điện tử (điện tử A chẳng hạn) tương tác với nút mạng (lực Coulomb) làm tăng mật độ điện tích dương trong vùng, xuất hiện phonon và lan truyền trong mạng. Một điện tử khác (điện tử B) ở trong vùng hấp thụ phonon do điện tử A tạo nên.
Hình 4. Mô hình tương tác giữa điện tử- mạng (ion
dương) - điện tử
Xung
lượng của hệ được bảo toàn trước và sau khi trao đổi phonon. Kết quả là, hai điện
tử A và B hút nhau tao thành một cặp Cooper với spin ngược nhau. Cặp Cooper điện
tử có spin bằng không là hạt Bose tuân theo thống kê Bose - Einstein. Trong các
điều kiện xác định, hiện tượng trên xẩy ra tượng tự đối với các cặp điện tử
khác trong chất siêu dẫn, tuy nhiên, chỉ có các điện tử có năng lượng ở gần mức Fermi mới
tham gia tạo cặp.
Đến đây chúng ta nhớ lại là, chất
lỏng He – 4 ở dưới nhiệt độ 2,17 K trở thành siêu chẩy (khi chẩy, không có ma sát
với thành bình chứa chất lỏng) do hiện tượng ngưng tụ Bose- Einstein của He – 4; chất lỏng He -3 (hóa lỏng ở nhiệt độ
3,2K), do ngưng tụ Bose-Einstein của cặp nguyên tử He-3 trở nên siêu chẩy ở nhiệt
độ siêu thấp (dưới 2.10-3K).
Tại
T < Tc các cặp Cooper điện tử tuân theo thống kê Bose – Einstein và ngưng tụ
ở cùng một trạng thái với năng lượng thấp nhất. Trên nhiệt độ Tc các
điện tử dẫn có spin bằng ½ và tuân theo thống kê Fermi – Dỉrac. Điều này chứng
tỏ đặc tính của điện tử trong chất siêu dẫn khi thay đổi khi chuyển qua Tc
như trên đã nêu.
Với kim loại thường, các điện tử tự do không có
tương tác với nhau, khi chuyển động dưới tác dụng của điện trường, do va chạm với
nút mạng và tạp chất, xung lượng không được bảo toàn xuất hiện điện trở khi tải
dòng điện. Còn ở trạng thái siêu dẫn,
các cặp Cooper điện tử tán xạ với nhau,
song tổng xung lượng các cặp là không đổi, khi chuyển động tạo nên dòng điện
không có trao đổi năng lượng và do đó cường độ dòng điện không thay đổi và điện trở bằng không.
Khe năng lượng
và nhiệt độ tới hạn:
Như trên đã đề
cập, bằng thực nghiệm đã chứng tỏ chất siêu dẫn có tồn tai khe năng lượng. Hình
5 là sơ đồ vùng năng lượng của chất siêu dẫn và
của kim loại (để so sánh). Năng lượng liên kết giữa các điện tử tạo nên khe năng lượng trong chất siêu dẫn. Khe
năng lượng Eg = 2D, là năng lượng giữa mức năng lượng thấp nhất có điện tử và mức kích
thích đầu tiên còn trống (vùng giả hạt, hình 5.a). Dưới tác dụng của các yếu tố
bên ngoài (sóng siêu cao tần, từ trường, nhiệt độ,…) mà năng lượng ≥ Eg, cặp Cooper bị phá vỡ
(điện tử bị tách cặp). Khi ấy, các điện tử không còn liên kết và tạo thành các
giả hạt (hình 5.a), trạng thái siêu dẫn chuyển sang trạng thái thường.
Trong đó, h là hằng số
Planck,nL là tần số Debye, V: ma trận tương tác điện
tử, N(EF): mật độ trạng thái của điện tử ở mức EF .
Hình 5. Sơ đồ vùng năng lượng của
các điện tử ở trạng thái siêu dẫn (5.a) và vùng năng lượng của kim loại ở trạng
thái thường (5.b). EF :năng lượng Fermi, Eg : khe năng
lương của chất siêu dẫn
Khi tăng nhiệt độ, tương tác giữa
các điện tử thông qua mạng tinh thể để tạo cặp Cooper giảm đi, khe năng lượng giảm, kết quả là, các
giả hạt trong chất siêu dẫn tăng lên. Khe năng lượng tiếp tục giảm đến nhiệt độ
Tc. Tại Tc khe năng lượng không còn nữa (D = 0) , chất siêu dẫn
hoàn toàn chuyển sang trạng thái thường.
Hình 6. Độ lớn tỷ đối của khe năng lượng phụ thuộc vào nhiệt
độ của một số chất siêu dẫn
Hình 6 biểu diễn sự phụ thuộc vào nhiệt độ của khe năng lượng tỷ đối theo lý thuyết BCS với
Eg = 2D = f(T). Dạng của đường
cong này đã được minh chứng bằng thực nghiệm đối với một số chất siêu dẫn.
Lý thuyết BCS cũng tiên đoán sự
phụ thuộc của Tc và năng lượng khe tại 0K theo biểu thức sau:
Eg(0) = 2D(0) =3,5 kBTc
, ( 7 )
kB:
hằng số Boltzmann, 2D(0) khe năng lượng ở 0K
Kết quả thực nghiệm về sự phụ thuộc
vào Tc của khe năng lượng của một số kim loại siêu dẫn bằng việc đo
độ hấp thụ của sóng hồng ngoại của một số chất siêu dẫn đưa ra ở hình 7.
Hình 7.
Sự phụ thuộc của khe năng lượng vào Tc của các chất siêu dẫn theo biểu
thức ( 7)
Từ biểu thức (6) và biểu thức (7) suy ra (8):
3,5 kBTc = 4hnL exp[-{N(eF)V}-1] |
( 8 ) |
Biết rằng, nL ≈ m-1/2, m là khối lượng của chất đồng vị. Rõ ràng là Tc ≈ m-1/2 ,
phù hợp với nhiều chất siêu dẫn.
4. Các chất siêu dẫn
loại II
Các hợp kim và hợp chất có từ trường tới hạn
(Hc) cao và dòng dòng điện tới hạn (Jc) lớn thường là các
chất siêu dẫn loại II, được ứng dụng nhiều. Các cuộn dây siêu dẫn tạo từ trường
trong thiết bị LHC sử dung dây hợp kim Nb-Ti (sẽ viết ở phần sau) là chất siêu
dẫn loại II. Lý thuyết về siêu dẫn loại II do các nhà khoa học Xô - Viết (trước
đây) trong đó có V.L.Ginzburg, L.D.Landau
và A.A. Abrikosov đưa ra vào năm 1957. Năm 2003 Abrikosov và Ginzburg được giải
thưởng Nobel về thành tựu trên. L. Landau được nhận giải Nobel về lý thuyết
siêu chẩy của heli lỏng năm 1962.
Theo các tác giả trên, trong chất siêu dẫn tồn
tại mặt ngăn cách giữa vùng siêu dẫn và vùng không siêu dẫn (thường). Các tính
toán đã chỉ ra rằng, với chất siêu dẫn loại I (kim loại tinh khiết), năng lượng
mặt ngăn cách là dương, còn các chất siêu dẫn loại II (các hợp kim, hợp chất)
năng lượng mặt ngăn cách này lại là âm. Do đó, khi từ tường ngoài tác dụng lên chất siêu dẫn loại
II có cường độ > Hc1 một cách thuận lợi về năng lượng, từ trường
ngoài thấm vào bên trong chất siêu dẫn loại II bằng các xoáy từ, tại đó, chất siêu dẫn chuyển
sang trạng thái thường. Cường độ từ trường tăng, các xoáy từ thấm vào mẫu siêu
dẫn tăng lên, bên ngoài các xoáy từ, mẫu
vẫn ở trạng thái siêu dẫn. Lúc này chất
siêu dẫn ở trạng thái trung gian : vừa có trạng thái thường, vừa có trạng thái
siêu dẫn (hình 8 và 9), điện trở của chất siêu dẫn vẫn bằng không. Từ thông
các xoáy từ (Φ) là lượng tử hóa và có độ
lớn bằng số nguyên lần lượng tử từ thông fo.
f0 = h/2e ≈ 2,07.10-15
Weber.
Hình 8. Trạng thái trung gian của siêu dẫn loại II theo Ginzburg
–Landau
Hình 9 là giản đồ pha của chất siêu dẫn loại I (9.a)
và chất siêu dẫn loại II (9.b). Các chất siêu dẫn loại I có 2 trạng thái thường
và siêu dẫn (trạng thái Meissner). Các chất siêu dẫn loại II có 3 trạng thái thường, trung gian và Messner. Căn cứ vào tỷ số giữa độ thấm sâu lL và độ
dài kết hợp x là k (k º lL/x là hằng số
Ginzburg-Landau) để phân biệt vật liệu là siêu dẫn loại I và loại II:
Nếu như chất siêu dẫn loại I có 1 một từ trường tới han là Hc
thì siêu dẫn loại II có 2 từ trường tới hạn Hc1 và Hc2.
Khi cường độ từ trường ngoài H ≥ Hc1
, từ trường ngoài bắt đầu thấm vào trong
chất siêu dẫn, và H = Hc2 trạng
thái siêu dẫn bị phá vỡ. Tại 4,2K, Hc của các chất siêu dẫn lọai I vào
cỡ 104 A/m (1 A/m = 4π.10-3Oe) trong khi đó Hc2 của một số chất có
thể đạt đến hàng triệu A/m. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong thực tế để tải
dòng điện lớn và tạo từ trường cao.
Hình 9. Giản đồ pha của chất siêu dẫn loại I (a) và siêu dẫn
loại II (b)
5. Ứng
dụng vật liệu siêu dẫn trong máy gia tốc đối chùm hardon khổng lồ (LHC)
LHC là
thiết bị dùng để gia tốc và tạo sự va chạm các hạt tích điện ở năng lượng cao. Dưới
đây, chúng tôi chỉ xin nêu một sồ thông tin liên quan tới việc sử dụng dây siêu
dẫn để tạo từ trường trong LHC.
Thiết bị LHC được đặt trong một đường hầm
vòng tròn chu vi 27km với đường kính hầm là 3,8m, nằm ở độ sâu từ 50 đến 175 m
dưới mặt đất.
Đường hầm chứa LHC có hai đường dẫn chùm tia
proton sát nhau,
chuyển động quanh vòng tròn theo hai hướng ngược nhau. Hai đường trên
giao nhau ở 4 điểm để tạo sự va chạm các chùm tia. Động năng của các hạt proton
được gia tăng từ 450 GeV lên đến 7 TeV ứng với cường độ từ trường của các lưỡng cực từ siêu dẫn tăng từ
0.54 lên 8.3 tesla (T). Các chùm proton ở mỗi đường dẫn chuyển động có tốc độ gần
bằng tốc độ ánh sáng , năng lượng trước
khi va chạm là 7 TeV. Như vậy, năng lượng va chạm các chùm tia đạt tới 14 TeV.
Điện trường và từ trường tác dụng lên điện
tích q chuyển động với vần tốc V một
lực là:
Điện trường gia tốc chùm tia theo chuyển động thẳng, để có
năng lượng 7TeV cần tác dụng điện áp tới 7TV.
Lực từ trường tác dụng vuộng góc với chuyển động của chùm tia
làm uốn cong quỹ đạo chùm tia theo đường tròn chu vi 27 km. Để đạt yêu cầu trên,
LHC sử dụng tới hơn 8.000 nam châm siêu dẫn, tạm phân làm 3 loại với chức năng
khác nhau như sau:
* Loại thứ nhất gồm 1232 nam châm siêu dẫn lưỡng cực từ (dipole từ) có chức năng lái chùm
tia theo vòng tròn. Mỗi một dipole từ
của LHC chứa 2 ống dây tạo từ trường với cường độ bằng
nhau nhưng ngược chiều nhau tác dụng lên 2 chùm tia proton chuyển động
đối song song trong đường hầm. Hình 6.1 là sơ đồ quấn dây cáp siêu dẫn trong một dipole tạo từ trường
vuông góc với chiều chuyển động chùm tia
trong ống có đường kính 56mm. Mỗi một dipole từ có chiều dài 14,3 mét, với dòng
điện 11.850 A từ trường đạt cường
độ 8.33T ( gấp khoảng 100.000 lần từ trường trái đất).
Hình 10. a) Sơ đồ quấn
dây cáp siêu dẫn ở dipole từ. Đường kính ống chứa chùm tia là 56mm, dây cáp siêu dẫn được quấn ở 2 lớp ngoài và lớp
trong. b) Tiết diện của dipole từ siêu dẫn
Hình 11 là sơ đồ tiết diện
ngang của dipole từ siêu dẫn. Hai cuộn dây siêu dẫn được bao bởi vòng đệm phi từ và lõi sắt từ, tất cả đặt trong
bình thép chứa heli lỏng. Các bộ phận
trên được cách nhiệt với bên ngoài bằng chân không.
Hình
11. Sơ đồ tiết diện ngang của
dipole từ gồm 2 cuộn dây siêu dẫn và các cấu trúc kèm theo
* Loại thứ hai gồm 400 nam châm siêu dẫn tứ cực từ (quadrupole từ) có chức năng hội tụ chùm
tia và tạo cơ hội va chạm chùm tia ở 4 điểm giao nhau trong đường hầm. Mỗi một quadrupole từ gồm 4 nam châm siêu dẫn
với các cực từ mắc nối tiếp nhau. Quadrupole từ có độ dài 3,1 mét, tạo gradient
từ trường 233T/m tại dòng điện 11.850 A.
* Lọai thứ ba là các nam châm siêu dẫn đa cực từ để bù trừ trường lệch trong các nam châm chính
gồm khoảng 3.600 chiếc và các cực từ hiệu chỉnh quỹ đạo và các thông số chùm tia gồm khoảng 2.800
chiếc. Các loại nam châm siêu dẫn này có chiều dài từ 0,15 đến 1,5 mét với
dòng điện 50-550 A tạo cường độ từ trường từ 0,1 đến 3T.
Hình 12
là ảnh dây cáp siêu dẫn dùng để tạo từ trường trong LHC. Các dây cáp siêu dẫn
được chế tạo từ hợp kim Nb-Ti (47% trọng
lượng Ti). Mỗi dây cáp có chiều ngang 15mm chứa tới 8.800 dây Nb-Ti nhỏ xíu với
đường kính 7μm
bện cùng dây đồng để tăng tối đa độ truyền nhiệt và giảm tối thiểu hiện tượng tỏa
nhiệt khi siêu dẫn chuyển sang trạng thái thường.
Hợp kim Nb-Ti là siêu dẫn loại II
với các thông số cơ bản sau:
- Độ dài kết hợp ζ(0K) = 0,005μm.
- Độ thấm sâu London λL(0K) = 0,3μm.
- Hảng số Ginzburg – Landau κ = 60.
- Nhiệt độ chuyển pha Tc = 9,25K.
- Từ trường tới hạn Hc1 (0K) = 0.01T.
- Từ trường tới hạn Hc2 (0K) = 14T.
Ngoài ra, hợp kim Nb-Ti có cơ
tính tốt, dễ gia công thành các sợi nhỏ.
Hình 12.. Dây cáp siêu dẫn dùng để tạo các loại từ trường
trong LHC
Số dây cáp siêu dẫn sử dụng trong các nam
châm siêu dẫn cho LHC dài tới 7000km với trọng lượng Nb-Ti là khoảng 400tấn.
Người ta đã làm phép tính như sau, nếu nối tất cả các dây siêu dẫn nhỏ xíu (7μm) dùng trong 1232 dipole từ thì tổng chiều dài
lên tới 1,38.1012 mét, tức là gấp 9 lần khoảng cách từ trái đất tới
mặt trời. Nếu tính cả các dây siêu dẫn dùng trong các nam châm khác của LHC thì độ dài dây sẽ gấp 10 lần khoảng
cách trên.
Các
nam châm siêu dẫn cần tới gần 96 tấn He lỏng để làm lạnh và 12 triệu tấn
nitơ lỏng để làm lạnh sơ bộ ban đầu cho 31.000 tấn vật liệu của LHC . Nhằm tăng
dòng điện và từ trường tới hạn của dây cáp siêu dẫn, người ta hạ nhiệt độ sôi của
heli lỏng từ 4.2K xuống trạng thái siêu chẩy (1.9K). Tại nhiệt độ này, dây siêu
dẫn Nb-Ti có thể tải được dòng điện tới 2.500A /mm2 (gấp hàng trăm lần
dây đồng), và có thể chịu được từ trường lên tới 10T.
Hình 13. Hình ảnh các nam châm siêu dẫn lắp đặt trong đường hầm
LHC
Chi phí cho hệ thông nam châm
siêu dẫn tới ½ giá thành LHC và phải tới 10 năm nghiên cứu, thử nghiệm. Hình ảnh các nam châm siêu dẫn đặt trong đường
hầm của LHC (hình 13).
Tài
liệu tham khảo
1. Thân Đức Hiền, Nhập môn về Siêu dẫn ( Vật liệu, Tính chất và Ứng dụng),
NXB Bách Khoa Hà Nội (2008)
2.
D. Larbalestier, Superconductivity – from Physics to the Applications, (http://www.magnet.fsu.edu/education/teachers/resources/emergentlabs/documents/supernet-larbalestier.ppt)
3.
Kazimierz Conder, 101 Years of Superconductivity, (http://www2.fz-juelich.de/ikp/cgswhp/cgswhp12/program/files_batumi/14-08-2012/3_Cazimierz_Conder_101YearsSuperconductivityFinal.ppt)
4.
Marco Buzio, Superconducting LHC
magnets- Characterisics and Qualification in SM18 Test Station. (http://appliedsc.epfl.ch/course/notes/magnet_seminar_Marco_Buzio.pdf)
5.
Ch.Meuris and J-M. Riflet. Superconducting magnets
for the LHC. (http://www.cea.fr/var/cea/storage/static/gb/library/Clefs56/pdf-gb/Clefs%2056_p04_09_MeurisGB.pdf)
Hà Nội, tháng
10 năm 2012
Thân
Đức Hiền
Nhận xét
Đăng nhận xét