ĐỐI XỨNG VÀ PHÁ VỠ ĐỐI XỨNG TRONG NGHỆ THUẬT
Đối xứng và phá vỡ đối xứng trong
nghệ thuật
Bài viết này đề cập đến Đối xứng và phá vỡ đối xứng trong lĩnh vực nghệ thuật mà thoạt nghĩ đến ta khó lòng có được môt ý niệm tường minh : văn chương, âm nhạc, hội họa…
Đối xứng và biến điệu (variation) trong văn
chương
Đối xứng trong văn chương là
một điều gì khó cảm nhận, phải tìm tòi mới làm bộc lộ ra được. Đối xứng ở đây
có thể biểu hiện một cách đơn giản như
những bài thơ đọc xuôi ngược được (palindrome như
trong câu Madam I‘m Adam, câu này đọc xuôi ngược đều được) đến những đối xứng rất phức tạp.
Đối xứng trong văn chương phải tìm hoặc trong cấu trúc lớn của tác phẩm, hoặc
trong tác động của tác phẩm lên tâm hồn người đọc, và sự đối xứng ở đây không
là một đối xứng tuyệt đối nào đó, mà là một đối xứng cộng với những biến điệu
(variation) nhiều mặt.
Một điều có thể khẳng định là
mọi tác phẩm văn chương thành công đều chứa một đối xứng nào đó. Vì sao?
Bởi vì muốn có một tác động sâu sắc lên tâm lý người đọc tác phẩm đó phải có
một vẽ đẹp nội tại nào đó, vẽ đẹp nội tại khó lòng tồn tại được nếu không có
một đối xứng hoặc tường minh hoặc tiềm ẩn nào đó về cấu trúc, về tâm lý, về
triết học, về xã hội, về nhân văn,... Vấn đề là phải phát hiện để bộc lộ những
đối xứng đó, để nắm bắt, định nghĩa, phân tích những đối xứng đó!
Như đã nói ở trên những đối
xứng trong văn chương không giống như những đối xứng trong toán học, vật lý,...
mà là những đối xứng mà muốn phát hiện đôi khi chúng ta phải cần đến những
ngành học như tâm lý, triết học.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp những đối xứng đó cũng có thể dễ cảm nhận, ví
dụ đối xứng giữa đoạn đầu và đoạn cuối của Iliad, giữa đoạn sơ ngộ của Kiều với
Kim Trọng ở phần đầu và đoạn tái ngộ của Kiều và Kim Trọng ở phần cuối truyện,
tuy rằng màu sắc hai cuộc tương ngộ khác nhau , một thì duyên mới bén duyên,
một thì duyên tuy đã mặn mà song cũng đã nhuốm màu cay đắng khép kín vào trong
lòng; có thể nói đây là một biến điệu (variation) đã làm cho đối xứng hai cuộc
tương ngộ thêm phần sinh động.
Biến điệu chính là một dạng phá vỡ đối
xứng.
Đối xứng trong văn chương có
thể nằm trong cấu trúc không gian, cũng có thể nằm trong tác động đến tâm lý
người đọc diễn biến theo thời gian.
Rất nhiều người yêu bài thơ
của Thái Can: Anh biết em đi ...
Khổ thơ đầu và khổ thơ cuối
là một, không sử dụng biến điệu (variation) nào:
Anh biết em đi chẳng trở về,
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về .
Tuy nhiên với nhạc điệu một
âm thể như thế bài thơ đã gây nên một
một mối buồn bâng khuâng trong lòng người đọc. Trong bài thơ này tác giả không
dùng nhiều tứ thơ, song chính nhờ một cấu trúc đối xứng đầu – cuối mà gây đuợc
cảm giác như sự vương vấn, ngậm ngùi cứ còn quay lại mãi có lẽ trong suốt cuộc
tình dài tan vỡ chẳng tại ai.
Tiếc rằng ở đây tác giả không
sử dụng một biến điệu nhỏ ở khổ thơ cuối cùng.
Xin kể lại một kỷ niệm ngày thơ ấu. Khi chúng tôi học ở một trường
làng nằm trên một đồi thông, thầy giáo làng vốn là một người yêu thơ, đã có một
lần đọc bài thơ Rồi một hôm của Thanh Tịnh với khổ thơ đầu:
Rồi một hôm nếu về cha hỏi
Mẹ ở đâu? Con biết nói sao?
- Con hãy bảo trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau .
và khi thầy giáo đọc đến khổ
thơ cuối cùng:
Còn mồ mẹ nếu cha muốn biết
Phải hướng nào con nói cùng cha?
- Con hãy chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời chỉ nội cỏ xa .
thì nhiều bạn học sinh đã
không cầm được nước mắt, có bạn thút thít
khóc. Vì đâu? Có thể vì bài thơ cảm động quá nhưng kỹ thuật nào ở đây,
có thể tác giả cũng không có chủ định sử dụng kỹ thuật mà chỉ để dòng thơ tuôn
tràn ra chăng? Có thể vì hôm đó là một buổi chiều ảm đạm, gió réo trên đồi? không, buổi chiều hốm đó là một chiều nắng vàng rực rỡ. Rất có thể đây
là tác động sâu thẳm của một đối xứng giữa cảnh bà mẹ nằm trên giường bệnh ở
khổ thơ đầu với cảnh bà mẹ nằm yên trong mồ trên nội cỏ xa ở khổ thơ cuối? Đây
có một biến điệu làm đau nhói trái tim của các bạn học sinh đang thổn thức tràn
ngập lòng yêu thương mẹ trong một buổi chiều trên đồi thông.
Trong văn chương nhiều tác giả
như Borges J.L. còn hiểu đối xứng như sự tương phản giữa cái ác và cái thiện,
giữa vai chính diện và phản diện, giữa trắng và đen, giữa người đàn ông và người đàn bà, giữa thân thể và
linh hồn, giữa hành động và phản hành động như giữa tâm thu và tâm trương.
Những phạm trù đối xứng này không phải luôn luôn khi nào cũng đối kháng lẫn
nhau, mà có lúc quyện lấy nhau trong một phát triển biện chứng nào đó .
Ngưòi xưa đã đưa ra luật lex talionis (Luật một mắt đổi một mắt), luật này dường như
môt tả một đối xứng giữa hành động ra tay của kẻ gây ác với cuộc truy đuổi của người trả thù. Đây là một đối xứng làm
thoả mãn tâm lý ủng hộ cái công bằng trong xã hội. Đối xứng này được môt tả một
cách triệt để và nghệ thuật nhất trong bi kịch Hamlet của thiên tài Shakespeare.
Độc giả vui mừng khi kẻ thủ ác Claudius bị Hamlet giết chết, nhưng ở đây cũng
có nhiều biến điệu: Hamlet, Laertes chết, hoàng hậu uống chén thuốc độc, vỡ
kịch kết thúc trong một toàn cảnh chết chóc, hoang tàn.
Trên đây là một số ý kiến
về đối xứng (vốn là vấn đề rất
tinh tế và tiềm ẩn ) trong văn chương.
Sự phân tích về đối xứng của những nhà phê bình chuyên nghiệp đối với những tác
phẩm văn chương thành công và những tác phẩm văn chương lớn, sử dụng triệt để
sự tích hợp các kiến thức có thể là những công việc có ích cho những nhà khoa
học, những người muốn tìm hiểu đối xứng, một phạm trù chung cho mọi cái đẹp.
Đối xứng trong âm nhạc
Các nhà soạn nhạc khi sáng
tác đã xây dựng một cấu trúc cho tác phẩm của mình. Liệu có thể phân tích tính
đối xứng của cấu trúc này hay không?
Nhà nhạc học Jean Claude
Risset, Viện cơ học và âm học Marseille cho rằng : Đối xứng nằm trong không gian, còn thời gian thì chảy một chiều, không
thuận nghịch vậy những suy nghĩ về đối xứng trong âm nhạc không đóng một vai
trò gì lớn lắm.
Ngược lại với ý kiến trên,
Roland Manuel thì khẳng định rằng: Tác
phẩm âm nhạc kiến tạo và thổi hồn vào thời gian... Mọi tác phẩm âm nhạc đều có một cấu trúc làm cân bằng các lực mà tác
phẩm đánh thức dậy. Tác phẩm sử dụng một đối xứng nhờ đó mà trí nhớ người
thưởng thức gợi lại những âm hưởng đã nghe và việc hồi quy những âm hưởng này
sẽ thoả mãn yêu cầu của sự cân bằng.
Maurice Emmanuel viết trong
tác phẩm Histoire de la langue musicale (1911): Sự đối xứng trong tác phẩm âm nhạc đòi hỏi một cấu trúc trong đó có một
đoạn trung tâm và trước đó và sau đó hai
đoạn treo. Có thể biểu diễn ý tưởng
đó của Maurice Emmanuel thành sơ đồ
A-B-A. Và người ta có thể dễ dàng thấy rõ sơ đồ đó là cấu trúc của
các aria
da capo, những điệu nhạc kịch thịnh hành ở thế kỷ XVII tại
Để tìm hiểu nội dung đối xứng
trong âm nhạc tác giả Eric Emery đi sâu vào phân tích thời gian đối với âm
nhạc. Đầu thế kỷ trước nhà toán học Pháp
Henri Poincare đã phân biệt hai khía cạnh của thời gian: thời gian tâm
lý và thời gian vật lý. Về điểm này chúng ta có thể liên tưởng đến quan niệm về
thời gian của Bergson, của Stephen Hawking (và của Xuân Diệu - Cái tôi phút trước sang tôi phút này).
Tiếp theo nhà triết học Gaston Bachelard và nhà tư tưởng F.Gonseth đã nêu lên 6
khía cạnh của thời gian:
-
thời gian chủ
quan gồm 3 loại:
hiện sinh (tôi có ít thời gian lắm)
ý thức
(thời gian đè nặng lên tôi)
tâm thức
(tôi nhớ đến thời gian sống với mẹ già)
-
thời gian khách
quan cũng gồm 3 loại:
chronos
(xếp đặt theo lịch đại – thời
cảnh)
tuơng đối
(tôi phải hiệp đồng thời gian với anh)
đo được
(chạy được 100 m trong 10 giây).
Chúng ta phân tích tỷ mỷ như
trên, cốt làm lộ ra một loại thời gian là thời gian tâm thức. Trong âm nhạc yếu
tố quan trọng hơn cả có lẽ là thời gian tâm thức. Chính nhờ thời gian tâm tưởng
này mà sau khi nghe một tác phẩm âm nhạc, hồi ức những âm hưởng đã nghe không
chỉ là là những hồi ức đơn thuần mà là những hồi ức đã thăng hoa tạo nên một sự
cân bằng, một cảm giác đối xứng. Như vậy
chính nhờ khía cạnh tâm thức mà chúng ta
có thể nói đến đối xứng trong âm nhạc.
Người ta có thể phát triển sơ
đồ A-B-A thành các sơ đồ A-B-A’-C-A (Concerto, re mineur cho 2 violon của
Jean-Sebastien , A’ là phần phát triển của A trên át âm (dominante) hoặc
A-B-dAB-A-B, trong đó dAB là phần phát triển của A và B.
Nhưng một điều quan trọng là
việc kiến tạo ra đối xứng phải đi kèm
với nghệ thuật phá vỡ đối xứng nhằm tạo
ra cái đẹp trong âm nhạc. Sau đây là ý kiến
của tác giả Eric Emery: Khi tôi lắng nghe một tác phẩm âm nhạc quá
hàm súc đối xứng thì sự áp đảo của cân bằng đưa tôi vào một trạng thái tĩnh và
điều này làm tôi nhàm chán; nhưng nếu người sáng tác không tạo ra một đối xứng
nào cả trong tác phẩm thì tôi mất phương hướng và sự thiếu vắng cân bằng lại
đưa tôi vào một trạng thái bồn chồn và điều này gây ra một cảm giác phi lý. Chỉ
khi nào tác phẩm có một cấu trúc đối xứng
tinh tế đi kèm với một nghệ thuật phá vỡ đôi xứng đầy tài nghệ thì tôi thật sự hưởng trọn hạnh phúc thưởng
thức âm nhạc.
Có thể nói một cách thận trọng rằng tính biện chứng giữa đối xứng
và phá vỡ đối xứng theo quan điểm của các nhà khoa học –trong đó có các nhà
nhạc học -đã ăn sâu vào tâm khảm con người. Con người như một sinh thể giao hoà
với cây cối, động vật, khoáng vật... không thể không cảm thụ được tính
biện chứng đó của cái đẹp.
Hãy hát lên bài ca trẻ con
Đức sau đây (Gabot của Iogann Pagelbel
(1653-1706)
Bài ca này có đối xứng tịnh
tiến. Song đối xứng đó bị vi phạm ở đoạn cuối và do đó giai điệu có sức truyền
cảm mạnh hơn. Trích đoạn sau đây từ bản
Gabot của
Iogann Pagelbel (1653-1706) có đối xứng thang xoắn: cách hai nhịp thì giai điệu
vang lên một quãng ba (tierce) cao hơn, và ở đây nhác sĩ cũng biến điệu đi một
ít làm cho đối xứng bị vi phạm nhẹ và giai điệu trở nên đẹp hơn.
Trích sau đây trong bản Musical Offering của Bach có đối xứng
gương P: một cây vĩ cầm thực hiện bè đảo ngược của cây vĩ cầm kia. Và cũng như
hai trường hợp trước, ở đây không có sự đối xứng tuyệt đối, điều này làm cho
bản nhạc nhiều âm sắc hơn.
Hoạ sĩ M.C.
Escher
Giáo sư C.H.Mc Gillavry, một nhà khoa học về tinh thể, đại học Amsterdam
cho rằng hoạ sĩ Hà lan M.C.Escher (1898-1072) là người tìm ra đối xứng “màu”.
Đối xứng màu ngày nay đã trở thành một đối xứng quan trọng trong
toán học và vật lý học. Đây là một ví dụ điển hình về trường hợp một nghệ
sĩ từ những tìm tòi trong nghệ thuật đã phát hiện ra những khái niệm mới trong
khoa học. Bức hoa văn nổi tiếng Loài
bò sát (xem hình 1)
là một minh hoạ về đối xứng màu. Trên bức hoa văn các con bò sát có 3 màu :
trắng ,đen mờ và đen thẫm. ở đây, muốn thấy tính đối xứng của bức hoa văn, ta
cần phải thực hiện một phép biến đổi màu tiếp theo phép biến đổi trong không
gian.
Như vậy nhóm đối xứng màu chứa những yếu tố
có dạng MK, trong đó K là biến đổi đối
xứng không gian,còn M là biến đổi đối xứng màu.
Hình 2. Ví dụ đối xứng
màu ,nếu quay hình Yin-Yang 180 độ, sau đó đổi màu trắng thành đen và ngược lại, thì ta có hình cũ.
Hoạ sĩ M.C. Escher là một nghệ sĩ độc đáo. Nếu các hoạ sĩ khác dùng yếu tố
đối xứng như là một thủ pháp để sáng tạo thì Escher lấy đối xứng làm nội dung
cho các tác phẩm của mình.
Bức hoạ sau đây (xem hình 3) nói lên được những suy tư của Escher về đối
xứng phải trái, tức đối xứng gương P. Hai bàn tay phải và trái từ trong không
gian hai chiều của một mảnh giấy chật hẹp xuất hiện trong không gian 3 chiều và
thực hiện những động tác hoàn toàn đối xứng. Nhìn bức hoạ, ta bất giác tự hỏi
đâu là khác biệt giữa bàn tay trái và bàn tay phải? Đây là một bức hoạ đầy sức
thuyết phục về tính đối xứng phải trái trong tự nhiên.
Hình 3. Tay trái và
tay phải .
Một bức hoạ không kém phần độc đáo là bức Vọng lâu mô tả trung tâm quốc tế
nghiên cứu đối xứng. Một chiếc lầu kỳ lạ được xây trên một vùng núi cao. Người
ta có cảm giác như sở dĩ lầu được xây dựng ở một độ cao như thế thì các nhà
nghiên cứu mới trừu tượng hoá được các vấn đề và gạn lọc ra được ý nghĩa đối
xứng của vũ trụ. Nhìn kỹ bức hoạ bạn đọc sẽ thấy một sự lạ lùng trong lối kiến
trúc của lầu này (hình 4).
Hình 4.
Vọng lâu
Nhiều cột của lầu tuy thẳng
đứng nhưng không nối hai điểm cùng nằm trên một đường thẳng đứng mà nối một
điểm nằm trên cạnh của tầng dưới với một điểm nằm trên cạnh đối diện của tầng
trên. Liệu có một không gian vật lý nào (không phải tô-pô) mà trong đó ta có
thể thực hiện được một kiến trúc có đối xứng như lầu trong Vọng lâu chăng? Có thể nghĩ rằng hoạ sĩ Escher đặt ra một câu hỏi
thế cho những nhà toán học. Không gian này ắt phải có một đối xứng đặc biệt và
một toà nhà xây dựng theo lối kiến trúc của Vọng lâu không có bên ngoài và bên
trong.
Ở tầng lầu dưới cùng chúng ta
thấy một kiến trúc sư cầm mô hình của
lầu và ngẫm nghĩ về lối kiến trúc lạ lùng này. Cạnh đó một hoạ sĩ ngồi sau cửa
sổ nghiên cứu các bức hoa văn do bóng chấn song để lại trước thềm trong những
giờ khắc khác nhau. Ở tầng hai, một nhà thông thái, có lẽ vướng mắc vào một vấn
đề đối xứng chưa hiểu hết, đứng trầm tư ở một góc. Còn nhân vật ở tầng ba với
dáng điệu ung dung tự tại nhìn vọng ra xa, dường như đã thấu triệt mọi lẽ đối
xứng trong trời đất.
Có thể dẫn ra đây nhiều bức
hoạ đầy tính độc đáo của hoạ sĩ Escher mô tả sự đối xứng của những không gian
phi Euclide. Nhưng có lẽ bức li-tô Các
con bò sát (xem hình 5) sau đây
Hình 5. Các con bò sát
lột được hết tinh thần về
đối xứng đề cập trong bài này. Nói rõ
hơn, bức li-tô này chứa đựng cả nội dung của nguyên lý đối xứng lẫn sự biểu
hiện của quy luật phá vỡ đối xứng.
Các bạn hãy nhìn bức li-tô Các con bò sát đó (hình 5). Trên bàn làm việc mà hoạ sĩ vừa rời khỏi, ngổn
ngang sách, thuốc lá, chậu cảnh với cây xương rồng, cốc, lọ, mô hình 12 mặt,
thước tam giác. Giữa các tĩnh vật đó là bản phác thảo của bức hoa văn Loài bò
sát nổi tiếng của Escher mà chúng ta
đã thấy ở trên.
Những con bò sát vốn là những
hoa văn trong bản phác thảo bỗng từ không gian hai chiều trở nên những con vật
sống, có chiều sâu, bắt đầu bò ra khỏi bức tranh, leo lên sách, thước, lên các
đồ vật xung quanh, thậm chí còn phun ra
lửa và rồi sau đó hoà tan lại trong bản phác thảo hai chiều chịu nằm cạnh nhau
theo một đối xứng hình học chính xác.
Nhìn bức li-tô này, chúng ta
có cảm giác như sức sống như xuất hiện tử một nền đối xứng chính xác. Sự phá vỡ
đối xứng đem lại sinh khí cho thiên nhiên, sự phá vỡ đối xứng sáng tạo ra hiện
tượng.
Đối
xứng và phá vỡ đối xứng là cơ chế tuyệt đối của tự nhiên
Nếu quan sát mọi hình thái,
hiện tượng xung quanh, chúng ta sẽ thấy rõ sự thể hiện của quy luật vi phạm đối
xứng trên nền một đối xứng cơ sở. Thực vậy, không có một vật gì có đơi xứng
tuyệt đối, ví như quả tim của chúng ta cũng nằm về một phía cơ thể. Dường như
thiên nhiên sợ cái đối xứng tuyệt đối.
Nếu thiên nhiên quả là hiện
thân của sự sống, của cái đẹp thì sự vi phạm đối xứng phải là một dấu hiệu tất
yếu của sự sống và cái đẹp. Sự đối xứng tuyệt đối chỉ là nguyên lý. Sau là một
trích đoạn trong quyển Ngọn núi kỳ lạ
của Thomas Mann:
“ ... Mỗi một sáng tạo băng giá này có một sự cân xứng tuyệt đối, một đối
xứng lạnh lùng và chính vì thế mà chứa đựng một điều gì tàn độc, không hữu cơ
và thù nghịch với cuộc sống; các sáng tạo này quá đối xứng và như thế không thể
làm chất liệu cho cuộc sống; cuộc sống run sợ trước mặt cái chính xác đó,
cái đều đặn lý tuởng đó và xem chúng là
nguồn gốc là bí mật của chết chóc. Và Hans Kastord chợt hiểu rằng ,vì sao các
kiến trúc sư thời cổ, lúc dựng lên những đên đài đã cố ý, mặc dầu một cách lén
lút, vi phạm đối xứng trong việc bố trí các hàng cột”.
Chúng ta có thể không chia sẻ
ý kiến quá cay độc đối với đối xứng trong trích đoạn trên, nhưng không thể
không đồng ý rằng chính sự vi phạm đối xứng mới tạo nên cuộc sống, tạo nên cái
đẹp làm rung cảm chúng ta.
Thêm một minh hoạ. Các bạn
độc giả hãy nhìn người đàn bà tuyệt mỹ trong bức Thị tỳ của danh hoạ Pháp
D.Ingres ( 1780-1867). Nhiều tĩnh vật mang tính cách phương Đông như vành khăn,
quạt, hộp trang sức, ống điếu, được đưa vào bức tranh để tăng thêm màu sắc
exotic, làm thành một cái khung rất đẹp, làm nổi bật nhân vật chính ở giữa (hình 6) . Lúc bức tranh được đem ra triển lãm lần đầu tiên năm
1819, nhiều nhà phê bình hội hoạ đã cho rằng
D.Ingres đã vi phạm các quy tắc
về giải phẫu và khẳng định rằng lưng của người cung nô này quá dài và thừa đến
3 đốt xương sống!
Ở đây, chúng ta
hiểu vấn đề như sau: nếu xem con người cùng với các tương quan về mặt giải phẫu
là mô hình của đối xứng tuyệt đối, thì D.Ingres đã vi phạm đối xứng đó nhân
danh cái đẹp. Thực vậy nhờ sự vi phạm đó mà dáng điệu nửa nằm nửa ngồi của
người cung nô trở nên uyển chuyển lạ lùng
Hình IX.3/6.
Thị tỳ – Tranh màu dầu của D.Ingres
và có lẽ sự vi phạm đối xứng
này chính là nét độc đáo nhất của bức tranh diễm lệ này?
Nếu sự vi phạm đối xứng trong
các tác phẩm là những biến điệu sử dụng trong nghệ thuật,thì sự vi phạm đối
xứng trong chân dung một nhân vật có thể là những biểu hiện của một cá tính và
một biệt tài nào đó chăng? Đây tôi muốn nói đến chân dung của nữ nghệ sĩ điện
ảnh nổi tiếng Nga T.Samoilova. Sau khi phim Đàn
sếu bay qua của đạo diễn M.Calatozov xuất hiện trên màn ảnh thì nữ nghệ sĩ
Samoilova trở thành biểu tượng của người
phụ nữ Xô-viết. Qua chân dung của nữ nghệ sĩ trẻ tuổi, người ta thấy hiện ra số
phận của cả một dân tộc với những chịu đựng lớn lao trong chiến tranh, tính
nhẫn nại, lòng dũng cảm và một sức mạnh
tinh thần phi thường.
Nhà quay phim có tài
Urusepski đưa cận cảnh khuôn mặt của
Samoilova lên màn ảnh với kích thước lớn nhất mà ống kính cho phép. Ông ghi lại
được tất cả những thay đổi tinh tế trên nét mặt của nữ nghệ sĩ. Có thể nói, từ
khuôn mặt của Samoilova, nhà quay phim đã sáng tác ra một bài thơ về sức diễn
cảm.
Điều gì đã làm cho khuôn mặt
của Samoilova có cái đẹp diễn cảm mạnh mẽ như thế? Một nhà phê bình điện ảnh là
chị M. Turovskaia cho rằng vì nữ nghệ sĩ Samiolova có một khuôn mặt hơi kỳ lạ
và không đối xứng!
Để kết luận chúng ta có thể
nói, sự phá vỡ đối xứng là một quy luật lớn của tự nhiên bao trùm nhiều hiện
tượng vi mô đến vĩ mô. Đó là một kết luận chắc chắn rút từ phạm trù khoa học
(vật lý, hoá học, sinh học, địa chất,...).
Điều đó có sức thuyết phục
chúng ta xem quy luật vi phạm đối xứng
của thiên nhiên như một dầu hiện chắc chắn của sự sống, của cái đẹp. Những minh
hoạ tôi trình bày trên đây, rút ra từ nhiều phạm trù trong đó có nghệ thuật, có
thể làm một cơ sở nào đó cho điều vừa nói.
Nếu khẳng định trên là đúng
thì những bạn đọc làm công tác nghệ thuật có thể sử dụng quy luật đó như đã sử
dụng những quy luật khác của nghệ thuật, ví dụ những quy luật của môn phối cảnh
hoạ (perspective).
Trên đây chúng tôi đã trích
một số đoạn nhạc có đối xứng tịnh tiến, đối xứng gương, đối xứng thang xoắn với
các biến điệu thể hiện vi phạm đối xứng. Tuy chúng ta chưa hình dung được những
bản nhạc có các đối xứng trừu tượng khác trong vật lý học, nhưng có lẽ rằng, sự
am hiểu những đối xứng tinh tế khác sẽ giúp các nhà soạn nhạc tìm ra những cấu
trúc nhạc mới mẻ. Có thể nghĩ rằng nếu nghệ sĩ rung chuông C.A.W.Troyte biết lý
thuyết về nhóm hoán vị, chắc ông đạt được nhiều kết quả lớn. Điều nói ở đây là
chung cho mọi ngành khoa học nghệ thuật (văn, thơ, hội hoạ, điêu khắc, kiến
trúc, múa nhạc,...)
Tìm ra những đối xứng mới và
biết quy luật vi phạm những đối xứng đó là con đường dẫn các nhà nghiên cứu
khoa học và sáng tác nghệ thuật đến thành công. Tìm ra được đối xứng vật lý tối thượng của vũ trụ là thực hiện được ước
mơ về một lý thuyết thống nhất của Einstein.
Hiện nay, người ta chưa biết
một cơ chế nào khác điều khiển thế giới tự nhiên một cách tuyệt đối như nguyên
lý đối xứng cộng với quy luật phá vỡ đối xứng.
Nhưng vì đâu có đối xứng và
vì sao thiên nhiên phải phá vỡ đối xứng
(tự phát) để thể hiện, đây là những câu hỏi bí ẩn thuộc phạm trù triết học chắc
không có câu trả lời!
Tài liệu tham khảo
[ 1 ] T.D. Lee: Các nguyên lý
đối xứng trong vật lý học. BNL 50261 (T-591)
[ 2 ] H.Weyl: Đối xứng,
Princeton University Press, 1952
[ 3 ] Patterns of symmetry.
[ 4 ] M.Hammermesh: Lý thuyết
nhóm và các ứng dụng vào vật lý. Addison-Wesley publishing company
[ 5 ] Dossier pour la Science: Les symetries de la Nature, Juillet 1998.
[ 6 ] Brian Greene: L’
Univers elegant, 2000.
Nhận xét
Đăng nhận xét