nhìn lại ĐỐI TƯỢNG GRAVASTAR

 



nhìn lại

GRAVASTAR và WORMHOLE  : NHỮNG ĐỐI TƯỢNG DẠNG LỖ ĐEN

 

Như  chúng ta biết aLIGO đã ghi nhận được sự cố mang dấu hiệu GW150914 . Sự cố này được diễn dịch là tín hiệu của SHD (sóng hấp dẫn) phát ra từ  sự hợp nhất của hai lỗ đen sau một quá trình tiếp cận, xin xem [1].

Song nhiều công trình lý thuyết đã gợi ý rằng sự cố đó có thể xuất phát từ những đối tượng  sao lạ (hypothetical exotic stellar objects) như gravastar hoặc lỗ sâu (wormhole) [2].Đây là những đối tượng lý thuyết gần giống lỗ đen chưa quan sát được.

 

I.  BA PHA (PHASE) TRONG QUÁ TRÌNH GHI ĐO SHD

 

SHD trong tín hiệu GW150914 được cho là hình thành  trong và sau quá trình  hợp nhất của hai lỗ đen. Tần số sóng hấp dẫn phát ra luôn thay đổi cho chúng ta biết quá trình diễn biến.Sau đây là ba pha của quá trình đó:

 

1 / Quỹ đạo của 2 lỗ đen giảm dần và  chúng bắt đầu  hợp nhất , đây là pha gọi là tiếp cận xoắn  (inspiral),

2 / Tiếp đến là pha  hợp nhất  (merger), giai đoạn này phát ra một tiếng chiếp (chirp) đặc trưng,

3 / Cuối cùng là pha hồi chuông kết thúc ( ringdown), khi lỗ đen hình thành đi về trạng thái cuối cùng.

Trong pha cuối cùng  xuất hiện một lỗ đen bị biến dạng rất nhiều , lỗ đen này sẽ trở về dạng bình thường và rung chuông báo hiệu. Tín hiệu phát đi trong hai pha 2+3 này chính là tín hiêu GW150914. Tín hiệu này rất quan trọng cung cấp thông tin về khối lượng, spin của hai lỗ đen ban đầu và lỗ đen cuối cùng.

Các kiểu (mode) dao động của lỗ đen vừa được hình thành gọi là QNM (quasi-normal modes-kiểu dao động giả chuẩn, tức là các kiểu dao động khi dao động tắt dần, nếu dao động không tắt dần thì ta có các mode chuẩn, khi có QNM thì tần số dao động gồm hai phần ảo và thực).

 QNM của lỗ đen gắn liền với các điều kiện biên tại chân trời sự cố -event horizon (trong trường hợp lỗ đen thì vắng mặt các sóng ra ). Nếu đối tượng không có chân trời sự cố thì điều kiện biên sẽ thay đổi hoàn toàn do đó ảnh hưởng đến cấu trúc của QNM.

Hiện nay vì tín hiệu không đủ mạnh cho nên khó lòng phân biệt được các nguồn SHD mặc dầu về mặt lý thuyết điều này có thể thực hiện được.Người ta tin rằng trong tương lai gần có thể có thêm thông tin về các nguồn SHD-nhất là khi aLIGO đạt đến mức thiết kế cực đại.Thêm vào đó các detector không gian như eLISA (European Space Agency's Evolved Laser Interferometer Space Antenna) sẽ hỗ trợ tìm ra sự phân biệt đó.

 

Các tính toán của Cardoso,Paolo Pani & Edgardo Franzin cho thấy rằng một ringdown như vậy có thể tạo nên bởi những đối tượng mô phỏng lỗ đen (black-hole mimicker). Đó là những gravastar [3 & 4] mà nội vùng chứa năng lượng tối hoặc những lỗ sâu (wormhole)-những đường hầm nối liền hai miền xa nhau của một vũ trụ hoặc nối liền hai vũ trụ [5].

Những đối tượng này sở hữu một đai ánh sáng (light ring) - đó là những quỹ đạo tròn của photon bao quanh các đối tượng com-pắc (com-pắc có nghĩa là có mật độ vật chất cao).

Những đai ánh sáng này khác với chân trời sự cố ở chỗ : ánh sáng có thể thoát ra ngoài qua các đai ánh sáng  trong khi ánh sáng không thể thoát ra ngoài chân trời sự cố của lỗ đen.

Cardoso và đồng nghiệp chứng minh rằng nếu một đối tượng đủ com-pắc để sở hữu một đai ánh sáng thì tín hiệu ringdown gần như tín hiệu ringdown của lỗ đen.

 

II .   GRAVASTAR [3 & 4]

 

Phương trình Einstein dẫn đến lỗ đen, song lỗ đen có điểm kỳ dị vậy gây khó khăn đối với thuyết lượng tử.

 

Để thay thế lỗ đen  hai nhà vật lý là Pawel O. Mazur  (Đại học South Carolina,Columbia) và Emil Mottola (Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos, USA)

đưa ra mô hình gravastar  (gravitational vacuum condensate star = sao hấp dẫn chân không condensate) không chứa điểm kỳ dị (vậy không gặp khó khăn với thuyết lượng tử) và không có chân trời sự cố (event horizon) .

 

Sau đây gravastar  được viết tắt là GVS.

GVS là kết quả co hấp dẫn của một sao làm cho bán kính sao tiến về gần bán kính Schwarzschild.Trong mô hình GVS các tác giả có chú ý đến thuyết lượng tử .Bên ngoài thì GVS trông giống như một lỗ đen. Người ta ghi nhận được GVS khi GVS thu hút vật chất rồi bức xạ.

 

Mô hình ban đầu của GVS có 5 lớp (hay vùng) nhưng sau quá trình đơn giản hóa gồm 3 lớp (hay vùng), xem hình 1. Mỗi vùng thỏa mãn một hệ thức nhất định giữa mật độ và áp suất:




                                                 

                                           Hình 1. Các lớp (hay vùng) của gravastar

          

Để so sánh với một lỗ đen ta có hình 2.

 

                            


 

                                                Hình 2. So sánh lỗ đen với gravastar

 

Buộc điều kiện không có kỳ dị ở tâm các tác giả [3] chứng minh rằng vùng I phải là không gian có hình học de Sitter,vùng I của GVS là một không thời gian cong. .

Vùng II là một chất lỏng siêu tương đối tính thỏa mãn .

Vùng III là chân không trở thành phẳng ở vô cực sẽ là một không gian Schwarzschild.

 

GVS được hình thành trong quá trình co hấp dẫn của một sao. Quá trình co hấp dẫn này dẫn đến một biến đổi pha.Vùng trong I của GVS trở nên không ổn định đối với sự hình thành một loại ngưng tụ Bose-Einstein hấp dẫn GBEC (Gravitational Bose-Einstein Condensate), xem thêm hình 3.

 

 

 

 

                     


 

                                             Hình 3. Cấu trúc của gravastar

Trong quá trình co hấp dẫn những thăng giáng lượng tử của không thời gian trở nên lớn gây nên  chuyển pha GBEC. Vùng ngưng tụ (condensate) được bao bọc bởi một vỏ II hình thành vào vị trí của chân trời sự cố (event horizon) của một lỗ đen tương ứng.

Một dị biệt lớn là gravastar không có đường chân trời sự cố.Thay vào đó các photon có thể bị bắt vào một quỹ đạo tròn quanh gravastar , quỹ đạo này gọi là đai ánh sáng (light ring)

 

Vùng I có một áp suất âm hướng ra bên ngoài. Vật chất từ bên ngoài bị hút vào GVS , song sau khi đi qua vỏ II thì lại bị áp suất âm của vùng I đẩy về vỏ II. Như vậy vỏ II chứa mọi vật chất baryonic của GVS.

Các nhà vật lý chứng minh rằng GVS là những lời giải ổn định của phương trình Einstein. Vì không có chân trời sự cố nên GVS không giam cầm ánh sáng.

GVS được chứng minh có entropy nhỏ hơn nhiều lần entropy của lỗ đen.

Mọi vật chất ở lân cận GVS khi rơi vào GVS sẽ dần bị bức xạ dưới một dạng năng lượng khác cho nên GVS quả là một nguồn bức xạ mạnh hơn lỗ đen vì lỗ đen chỉ hút mà không phát ra bức xạ ( ngoại trừ bức xạ Hawking).

 

Khối lượng của GVS là M, bán kính trong của vỏ bọc là r1 bán kính ngoài là r2 (cũng là bán kính của GVS).



Theo các tác giả [4], sau khi so sánh phần ảo và phần thực của ringdown của tín hiệu GW150914 với các đại lượng tương ứng của gravastar các tác giả kết luận rằng tín hiệu ringdown  chỉ có thể tạo nên bởi gravastar nếu như bề mặt của nó vô cùng gần (infinitesimally close )với chân trời sự cố.

 

 III .  LỖ SÂU (WORMHOLE)

 

Theo các tác giả Vitor Cardoso (Perimeter Institute for Theoretical Physics), Edgardo Franzin (University Cittadella,Italy), Paolo Pani (University of Rome)

[5] , một đối tượng mô phỏng lỗ đen khác có thể là một lỗ sâu (xem hình 4).

Trên hình 4 ta có một lỗ đen (bên trái ) và một lỗ sâu (bên phải ). Điều đáng chú ý nhất là lỗ sâu khác với lỗ đen không có điểm kỳ dị và không có đường chân trời sự cố.

Thay vào đó lỗ sâu có hai đai ánh sáng ở hai phía  cổ (throat) của lỗ sâu là hình ảnh tương tự của chân trời sự cố của lỗ đen. Lỗ sâu nối liền hai miền khác nhau của một vũ trụ hoặc nối liền hai vũ trụ khác nhau.

           

                                       


                Hình 4 . Bên trái là lỗ đen có chứa điểm kỳ dị (singularity) và chân trời sự cố.

Bên phải là lỗ sâu (wormhole)không có điểm kỳ dị và không có chân trời sự cố:

1&3 là các đai ánh sáng (light ring) ,2 là cổ (throat) của lỗ sâu ,4 là quỹ đạo của hạt đi vào lỗ sâu và bay ra một miền khác hoặc vũ trụ khác.

 

Lỗ sâu được kết thành nhờ khâu lại với nhau hai metric Schwazschild có cùng khối lượng M tại cổ (throat) của lỗ sâu (xem  hình 4 , cổ của lỗ sâu được đánh dấu bằng số 2).Điều này làm liên tưởng đến sự hợp nhất của hai đối tượng đang sắp sửa thành lỗ đen (bán kính tại cổ của lỗ sâu  r 0 > r của lỗ đen=2M , ở đây dùng G = c = 1 ).Tác động của lỗ sâu mô phỏng tác động của một lỗ đen: có hạt bay vào và có hạt bức xạ ra.

 

 

IV . HỒI CHUÔNG KẾT THÚC, CÁC KIỂU DAO ĐỘNG GIẢ CHUẨN,ĐAI ÁNH SÁNG (RINGDOWN,QNM,LIGHT RING) [4&5]

 

Người ta tin rằng tín hiệu ringdown (hồi chuông kết thúc) chứng tỏ sự hình thành một chân trời sự cố sau giai đoạn  hợp nhất (merger). Điều này dựa trên giả định rằng dạng sóng ringdown được xác định bởi QNM (Quasi-normal Modes-Các kiểu dao động giả chuẩn) của đối tượng được hình thành cuối cùng.

 

Cần nhấn mạnh rằng khẳng định trên cần phát biểu cẩn trọng vì rằng mọi đối tượng sở hữu một đai ánh sáng cũng hiển thị một ringdown như thế, mặc dầu các phổ các QNM có thể khác với QNM lỗ đen.Nói cách khác một ringdown phổ quát biểu hiện sự tồn tại một đai ánh sáng hơn là một chân trời sự cố.

 

Chỉ có những quan trắc chính xác hơn  sau tín hiệu ringdown khi mà các sự khác nhau trong phổ QNM bộc lộ rõ ràng mới có thể phân biệt được các đối tượng lạ khác lỗ đen .

 

 

V. KẾT LUẬN


Trong quá trình ghi đo sóng hấp dẫn của aLIGO tín hiệu GW150914 có khả năng được tạo nên bởi những đối tượng tựa lỗ đen như gravastar hoặc lỗ sâu (wormhole) trên cơ sở một số giả thiết. Để phân biệt các đối tượng -nguyên nhân của tín hiệu người ta cần có một tín hiệu mạnh hơn hoăc sự cố xảy ra gần hơn trong vũ trụ và khi sử dụng những dữ liệu  sau pha hồi chuông kết thúc  ( ringdown phase) khi mà các sự khác nhau trong phổ QNM xuất hiện tường minh.

 

Tài liệu tham khảo

 

[1]http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=9417

[2] Tushna Commissariat ,Are wormholes or 'gravastars' mimicking gravitational-wave signals from black holes?

http://physicsworld.com/cws/article/news/2016/apr/29/are-wormholes-or-gravastars-mimicking-gravitational-wave-signals-from-black-holes

[3] Pawel O. Mazur , and Emil Mottola

Gravitational Condensate Stars: An Alternative to Black Holes

arXiv:gr-qc/0109035v5 27 Feb 2002

[4]Cecilia Chirenti  and Luciano Rezzolla,  Did GW150914 produce a rotating gravastar? ìninitessimal

arXiv:1602.08759v1 [gr-qc] 28 Feb 2016

[5]Vitor Cardoso  , Edgardo Franzin  , Paolo Pani

Is the Gravitational-Wave Ringdown a Probe of the Event Horizon?

arXiv:07309v3 [gr-qc] 27 April 2016

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH

VẬT LÝ và NGHỆ THUẬT