nhìn lại NĂNG LƯỢNG TỐI
nhìn lại
Năng lượng tối :Liệu có cần một lý thuyết vật lý mới cho vũ trụ?
Mười năm trước một phát hiện đã làm
kinh ngạc các nhà vũ trụ học. Nhiều quan trắc chứng tỏ rằng quá trình giãn nở
vũ trụ thay vì chậm lại thì càng gia tăng. Để giải thích hiện tượng khó hiểu
này các nhà vũ trụ học đã đưa ra giả thuyết về sự tồn tại một loại năng lượng
bí ẩn – năng lượng tối
. Hiện nay bản
chất của loại năng lượng này chưa được làm sáng tỏ. Công cuộc truy tầm năng
lượng tối đang tiếp diễn quyết liệt trong lĩnh vực thực nghiệm cũng như lý
thuyết .
Hiện nay vũ trụ đang giãn nở có gia tốc thay vì giãn nở
chậm lại như chúng ta lầm nghĩ trước đây. Nguyên nhân : sự tồn tại phỏng đoán
của một loại năng lượng gọi là năng lượng tối gây nên lực đẩy. Nếu
không có năng lượng tối (hình I.5/1) thì
lực hấp dẫn vốn là lực hút sẽ làm cho sự giãn nở của vũ trụ chậm dần
lại. Phỏng thuyết về năng lượng tối đã được đưa ra khoảng 10 năm trước đây,
song bản chất của loại năng lượng này vẫn còn nằm trong bóng tối. Tuy vậy đa số
các nhà vũ trụ học không nghi ngờ sự tồn
tại của năng lượng tối. Nhiều lý thuyết
đã được đưa ra để giải thích năng lượng tối và gây nên tình huống năng lượng tối càng ngày càng trở nên bí ẩn
hơn bao giò hết.
Sự dịch về phía
đỏ
Vào đầu thế kỷ XX nguời ta cho rằng vũ trụ luôn luôn nằm
trong trạng thái tĩnh. Song vào năm 1929
những quan trắc của nhà thiên văn người Mỹ Edwin Hubble đã làm thay đổi quan điểm trên. Phổ ánh sáng
phát ra từ các thiên hà bị dịch về phía đỏ. Sự dịch về phía đỏ nói rằng các
thiên hà đang chuyển động xa dần (hiệu ứng Doppler) và theo định luật Hubble,
tốc độ chuyển động xa dần tỷ lệ với khoảng cách đến các thiên hà.
Trong nửa thế kỷ tiếp theo người ta nghĩ rằng lực hấp dẫn
sẽ dần dần làm cho quá trình giãn nở này chậm lại và quá trình co lại của vũ trụ sẽ dẫn đến BigCrunch ( vụ co lớn của vũ trụ về một điểm
kỳ dị ), song mọi việc đã xảy ra ngược lại.
Các siêu sao
(supernovae)
Đến năm 1990 nhờ các kỹ thuật ghi đo phát triển nguời ta
phát hiện những siêu sao (supernova) hình thành do nổ nhiệt hạch của các sao ở giai đoạn cuối
đời. Các siêu sao phát ra độ sáng rất
lớn. Sau một thời gian ( nhiều tuần đến nhiều tháng ) siêu sao chết dần, trong
khoảng thời gian đó siêu sao có thể phát ra một năng lượng tương đương với năng
lượng mặt trời phát ra trong khoảng 10
tỷ năm. Các siêu sao trông giống như những ngọn nến quy chiếu trong vũ trụ
nhờ năng lượng khổng lồ thoát ra: độ sáng
cho phép người ta xác định khoảng cách của chúng còn sự dịch về phía đỏ trong phổ phát xạ cho phép xác định tốc độ giãn nở
và từ đó đưa ra phỏng thuyết về năng lượng tối.
Những dao động âm baryonic (Baryonic
Acoustic Oscillations -BAO )
Vào những
giai đoạn sớm của vũ trụ không lâu sau BigBang tồn tại hai lực với bản chất
khác nhau : áp lực bức xạ ( radiative pressure ) gây nên bởi các photon và lực
hấp dẫn. Sự tranh chấp của hai lực này
đã gây nên những sóng áp lực (pressure wawe ) tương tự như sóng âm lan truyền
với một tần số và vận tốc xác định. Khi vật chất và ánh sáng cuối cùng phân chia nhau ( trước đây photon, electron,
baryon tức proton & neutron nằm cùng nhau trong một trạng thái plasma ) thì
các sóng này đóng vai trò quyết định trong sự phân bố mật độ vật chất – và do
đó khoảng cách giữa các thiên hà.
Các sóng
này lưu lại dấu vết trong vật chất baryon (baryonic matter ), sử dụng chúng
người ta có thêm một phương pháp khác để
đo các khoảng cách trong việc xác định quá trình giãn nở của vũ trụ.
Hình 1. Vũ trụ giãn nở từ 13,7 tỷ năm về trước. Các
quan trắc cho thấy rằng quá trình giãn nở đó chậm lại trong giai đoạn 9 tỷ năm
tiếp theo , do tỷ phần áp đảo của vật chất. Sau đó mật độ vật chất không đủ làm
đối trọng với lực đẩy gây nên bởi năng lượng tối, từ đó vũ trụ giãn nở với gia
tốc ngày càng lớn.
Các thành phần
năng lượng trong vũ trụ
Hình 2.
Trong vũ trụ có năng lượng tối,vật chất tối và vật chất thông thường xếp
thứ tự theo chiều kim đồng hồ trên hình vẽ. Vật chất có nhiều ở giai đoạn sơ
sinh của vũ trụ. Trong quá trình giãn nở vật chất loãng dần và năng lượng tối
dần chiếm ưu thế và quyết định số phận
của vũ trụ.
Trong vũ trụ có 3 thành phần quan trọng : năng lượng
tối ( dark energy ) gây lực đẩy,vật chất
tối ( dark matter ) gây lực hút , vật chất thông thường ( các sao , các thiên hà,
các bức xạ ). Sự biến thiên của tỷ phần của năng lượng tối / vật chất tối / vật
chất thông thường theo thời gian được
trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1
Thời điểm |
Năng lượng
tối |
Vật chất tối |
Vật chất
thông thường |
11,5 tỷ năm
trước |
3,5 % |
80,4 % |
16,1 % |
7,5 tỷ năm
trước |
22,6 % |
64,5% |
12,9% |
HIỆN TẠI
|
70 % |
25 % |
5 % |
11,5 tỷ năm sau |
95 % |
4,2% |
0,8 % |
24,5 tỷ năm sau |
99,3% |
0,6% |
0,1% |
Theo các quan trắc
thì năng lượng tối hiện nay chiếm đến
70-72 % vũ trụ (xem hình I.5/2 & Bảng 1) và tỷ phần này càng lớn dần theo
thời gian.
Hiện tượng giãn nở có gia tốc xảy ra tuơng đối không lâu
lắm khoảng 5 tỷ năm về trước (xem hình I.5/1). Trước thời điểm đó sự giãn nở
của vũ trụ đang chậm dần lại vì lực hấp dẫn của vật chất. Điều đó có nghĩa là
trong khi mật độ vật chất giảm dần khi vũ trụ giãn nở thì nguợc lại mật độ năng
lượng tối gần như không thay đổi (hoặc thay đổi rất ít): như thế tỷ phần năng
lượng tối tăng lên theo quá trình giãn nở.
Những giả
thuyết về năng lượng tối
Những quan trắc hiện đại ( năm 1998 ) về sự bùng nổ của các sao ở khoảng cách xa ( supernovae ) chứng tỏ rằng có một lực bí ẩn đang gia tốc quá trình giãn nở của vũ trụ
1 / Lý thuyết Einstein nối liền không thời gian với vật chất trong
phương trình mang tên Einstein:
G ab =8pGTab ,
Gab mô
tả hình học của không thời gian, Tab mô tả vật chất. Một tiếp cận lý
thuyết nhiều hứa hẹn để giải thích năng
lượng tối là thêm “hằng số vũ trụ l”
(lambda-constant cosmologic) vào vế trái
phương trình trên:
G ab + l gab =8pGTab .
Hằng số này ứng với một hiện tượng lượng tử – sự thăng
giáng của chân không. Những thăng giáng này gây nên mật độ và áp suất của năng lượng tối. Giả
thuyết này gặp phải một khó khăn. Theo tính toán của các nhà vật lý lượng tử
thì năng lượng thăng giáng của chân không vượt năng lượng tối khoảng 10 60
lần. Sự hiện diện của hằng số vũ trụ tương đương với sự tồn tại của chất lỏng đồng nhất (homogeneous) với mật độ
năng lượng e không thay đổi và áp suất p
< 0 (giống như một dây lò xo bị kéo giãn ra gây áp suất âm), chất lỏng này tạo
nên gia tốc cho sự giãn nở của vũ trụ.
Người ta đưa vào mật độ năng lượng chân không el tỷ lệ với hằng
số vũ trụ l trong phương
trình Einstein
l =
(8 p G / 3c2
) el
và thông số mật độ W
W = (8 p G / 3 H2
c2 ) e
ở trên đây H là hằng số Hubble . Thông số mật độ
W =Wvật chất + Wbức xạ + Wl .
Khi W < 1 thì
không gian có độ cong âm, khi W thì không gian có độ cong dương, còn khi W = 1 thì không
gian phẳng.
2 / Một phương án khác là giả định sự tồn tại của
quintessence - một dạng ether. Quintessence là
danh từ lấy từ luyện kim thuật ( alchimie ), có nghĩa là nguyên tố
thứ năm xếp sau bốn nguyên tố khác là không khí, đất, nước và lửa.
Quintessence mô tả năng lượng tối như một thực thể động
học với mật độ và áp suất thay đổi theo
thời gian. Quintessence chỉ tương tác với vật chất thông thường thông qua
hấp dẫn.
Như ta biết phương
trình trạng thái của chân không có dạng p = - e, trong đó p là áp suất còn e là mật độ năng lượng.
Đối với
quintessence thì phương trình trạng thái nối liền áp suất với mật độ năng
lượng là p/e = q với
-1<q < -1/3. Một phương trình trạng thái như thế dẫn đến phản hấp
dẫn ( antigravity ) p < 0 và
ehấp dần < 0 [2] &[3] .
Nếu số q < - 1 thì
phản hấp dẫn sẽ lớn dần đến mức xé rách mọi thiên hà , mọi nguyên tử,
mọi vật chất, đó là sự cố BigRip (Rip, tiếng Anh là xé rách) .
Trong triết học cổ
điển những người Hy lạp cổ xưa đã tìm ra năm hình đa diện có 6, 8, 4, 20 và 12
mặt. Năm hình đa diện đều này đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát
triển khái niệm đối xứng. Người Hylạp
xem chúng là những viên gạch cơ bản cấu thành vũ trụ: họ gắn liền đất với hình
6 mặt, không khí – hình 8 mặt, lửa - hình 4 mặt, nước- hình 20 mặt và một loại
chất liệu vũ trụ – hình 12 mặt.
Trong vật lý hiện đại
một số các nhà vật lý đưa ra 5 yếu tố
của vũ trụ: baryon, neutrino, photon, vật chất tối, và quintessence (một khả
năng khác của năng lượng tối, ngoài khả năng hằng số vũ trụ ).
Có thể đưa ra sơ đồ
khả dĩ của 2 khả năng sau đây cho năng
lượng tối:
trong đó quintescence là một một loại hạt giả tưởng
chiếm đầy vũ trụ ( ứng với một trường lượng tử ) .
Theo sơ đồ nêu trên chúng ta thấy có 2 khả năng để xét vấn đề năng lượng tối, trong đó khả năng sử dụng quintessence cũng có nhiều điểm duy lý, được nhiều nhà vật lý chú ý.Quintessence tạo ra một trường khi tương tác với vật chất thì thay đổi theo thời gian. Điểm này làm cho quintessence dễ thích hợp với các trị số quan sát được đối với năng lượng tối. Theo quan trắc thiên văn có thể năng lượng tối chỉ phát huy tác dụng cách đây khoảng 6 tỷ năm
3 / Một hướng khác để giải thích năng lượng tối
là thay đổi lý thuyết tương đối: giả định
tồn tại một loại vật chất mà mật độ năng lượng thay đổi theo thời gian,
có tương tác tầm xa với các hạt khác cho nên làm thay đổi tương tác hấp dẫn.
Đây là loại tương tác thứ năm (sau các tương tác điện từ, yếu, mạnh và hấp dẫn ) không đáng kể trong vùng
không gian tương đối nhỏ song có ảnh hưởng phải tính đến trong những vùng vũ trụ với kích thước lớn.
Một lý thuyết kiểu như thế là lý
thuyết Brans-Dicke. Hai tác giả Brans & Dicke đưa vào lý thuyết một trường vô hướng f , trường này
biến đổi theo không gian và thời gian. Trong lý thuyết Brans-Dicke vật chất sẽ
biến động tùy thuộc vào độ cong của không thời gian như trong lý thuyết
Einstein và vào sự thay đổi của cường độ hấp dẫn từng nơi. Trường f choáng đầy không gian và tham gia quyết định
chuyển động của vật chất trong không thời gian. Trong lý thuyết Brans-Dicke vế
phải của phương trình Einstein nguyên
thủy biến thành
8pGTab
+ các số hạng chứa trường f và
tham số w
Tham số w là một tham số
không thứ nguyên, khi w ® ¥ ta sẽ có lại lý thuyết Einstein.
Trong lý thuyết Brans-Dicke có tenxơ Tab và vô hướng S nên được gọi là lý thuyết vô
hướng-tenxơ. Gần như cùng một lúc Higgs đưa vào vật lý các hạt cơ bản
trường Higgs để tạo khối lượng cho các hạt.
Các công trình của Brans-Dicke & Higgs được công
bố trên tạp chí uy tín là Physical Review. Vào giữa những năm 1970
người ta thấy dường như có mối liên quan
giữa hai lý thuyết trên. Phải chăng hai trường
Brans-Dicke và Higgs có cùng một bản chất vật lý?
5 / Một hướng khác là đưa vào lý thuyết những mô
hình không đồng nhất ( heterogeneous ) để
giải thích hiện tượng giãn nở
bằng cách ... loại bỏ nó: sự giản nở
chỉ là một hệ quả gắn liền với cách đoán nhận các dữ liệu dựa trên một giả
thuyết sai lầm về hình học của vũ trụ.
Trong vũ trụ vật chất có thể phân bố
không đồng nhất và đẳng hướng như chúng ta giả định khi nghiên cứu hiện tượng
giãn nở. Nếu xét những mô hình hình học phức tạp hơn chúng ta có thể không cần đến một mật độ năng lượng bổ sung
nào khác và như vậy loại bỏ năng lượng tối.
6 / Tồn tại chăng
những chiều dư ( extra dimensions )?
Lý thuyết siêu
dây đã đưa ra 6 đến 7 chiều dư ngoài 4 chiều không thời gian. Các chiều dư
này cuộn lại thành những không gian nhỏ nên chúng ta không cảm nhận được. Một
số tác giả cho rằng hiện tượng gia tốc hiện nay của vũ trụ không phải gây
nên bởi năng lượng tối mà bởi sự lan truyền, rò rỉ hấp dẫn vào những
chiều dư [4].
Thế năng của một số trường có khả năng gây ra một hiệu
ứng tương tự như hằng số vũ trụ (ví dụ inflaton ) hay quintessence, song những
giả thuyết như vậy vẫn nằm trong phạm trù chấp nhận sự tồn tại của năng lượng
tối. Liệu có thể không cần đến khái niệm năng lượng tối, chỉ dùng hiện tượng rò
rỉ hấp dẫn sang các chiều dư để giải thích hiện tượng giãn nở có gia tốc của vũ
trụ?
Như chúng ta biết
trong lý thuyết siêu dây, những mặt có tên là màng ( brane ) đóng một vai trò tôpô quan trọng. Các hạt như
electron, proton, neutron … là những dao động của những dây h , đầu mút các dây
này bị dán vào màng vốn là chỗ cư trú của thế giới chúng ta,
trong khi đó graviton, lượng tử của hấp dẫn lại là dao động của những dây kín,
không có đầu mút, cho nên graviton có khả năng thoát khỏi màng và truyền lan sang các chiều dư.
Như vậy chỉ riêng tương tác hấp dẫn là có thể thất thoát khỏi màng và người ta chứng minh rằng các graviton có
bước sóng dài dễ dàng lan truyền sang các chiều dư ( hình I.5/3 ).
Hình 3. Vũ trụ của
chúng ta nằm trong một màng ( brane ).Hấp dẫn có thể thoát ra khỏi màng và lan
truyền sang các chiều dư ( extra dimension ) .
Nếu hai
thiên hà ở rất xa nhau thì các graviton trao đổi giữa chúng là những graviton
có bước sóng dài, loại graviton này sẽ thất thoát sang các chiều dư do đó lực
hấp dẫn trở nên yếu, định luật hấp dẫn không còn là 1 / r 2 nữa (
trong không gian n chiều thì định
luật hấp dẫn sẽlà 1/ r n-1 ). Đây là một điều kiện cho sự giãn nở có
gia tốc.
Các tác
giả Cedric Deffayet , Gabadadze và Georgi Dvali
chứng minh rằng các chiều dư sẽ dẫn đến giản nở có gia tốc [4] . Thực
vậy trong lý thuyết nhiều chiều, những chiều dư sẽ tạo nên một số hạng mới trong
các phương trình làm cho độ cong của màng thay đổi, hệ quả là: hấp
dẫn rò rỉ vào các chiều dư tạo nên thêm một độ cong bất khả quy (irreducible) trên màng mà không phụ thuộc vào mật độ vật chất và năng lượng trên màng! Và độ cong này tác dụng như một
hằng số hấp dẫn và làm cho vũ trụ giãn nở có gia tốc.
Một lý thuyết
vật lý mới cho vũ trụ ?
Năng lượng tối có thể dẫn đến một mô hình vũ trụ mới thậm
chí đòi hỏi thay đổi một số định luật vật lý. Hãy xét nguyên lý Copernicien gồm
ba yếu tố: vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng đối với mọi điểm + lý thuyết Einstein + một loại chất
lỏng với một phương trình trạng thái.
Jean-Philippe Uzan, CNRS (xem hình 4) muốn xét lại
nguyên lý Copernicien. Sự dịch chuyển phổ và độ sáng (khoảng cách) không độc lập với nhau nếu nguyên lý
Copernicien là đúng. Một sự sai lệch khỏi mối liên kết đó sẽ chứng tỏ nguyên lý Copernicien là sai. Nếu nguyên lý
này sai thì cần có những phương trình khác để mô tả một hình học phức tạp hơn
của vũ trụ. Và như thế những lời giải sẽ không ứng với một vũ trụ đẳng hướng và
đồng nhất, ví dụ ta phải xét đến một đối xứng như đối xứng cầu chẳng hạn. Đây quả là một cuộc cách mạng
chống-Copernicien. Và trong mô hình mới này rất có thể không còn tồn tại sự
giãn nở. Sự giãn nở có thể là hệ quả của
một giả thuyết sai lầm về đối xứng (một trường hợp làm mất đối xứng là vũ trụ của chúng ta nằm trong một bong bóng với mật độ nhỏ hơn).
Nếu giữ lại nguyên lý Copernicien thì phải hoặc thay đổi
lý thuyết tương đối hoặc phải chấp nhận năng lượng tối.
Kết luận
Năng lượng tối là một vấn đề đang còn nằm ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta. Năng lượng
tối có thể dẫn đến việc xét lại nhiều định luật vật lý, nhiều mô hình vũ trụ
hiện đại. Nguời ta hy vọng trong vòng 15 đến 20 năm mới có thể làm sáng tỏ bài
toán khó khăn này mà thiên nhiên đặt ra cho chúng ta.
Tài liệu tham
khảo
[1] Franck Danino, Fabrice Demarthon (La Recherche), Pierre Astier, Reynald Pain ,
Jean-Philippe Uzan (CNRS), Energie noire ,
La Recherche , tháng 9 / 2008
[2] A.D. Tchernin , Cosmic
Vacuum, Uspekhi phys.nauk , 11/2001
[3]
L.D.Landau,E.M.Liftchitz . Field theory
[4] Cao
Chi, Einstein và vũ trụ lượng tử, trong tuyển tập “ Einstein với khoa học &
công nghệ hiện đại” , Hội Vật lý thành phố Hồ Chí Minh, 2005..
Nhận xét
Đăng nhận xét