nhìn lại EINSTEIN VÀ VŨ TRỤ LƯỢNG TỬ
Einstein và Vũ trụ lượng tử
Bài viết này gồm hai phần .
Phần thứ nhất nêu lên một số những nghiên
cứu của các nhà vật lý lý thuyết theo dòng các ý tưởng lớn của
Einstein : lý thuyết thống nhất , hằng số vũ trụ , các
chiều dư ( extra dimensions ) của không-
thời gian ,tham số ẩn trong cơ học lượng tử .
Phần thứ hai nêu lên những
vấn đề mà các nhà vật lý dự định tiếp tục nghiên cứu : vũ trụ lượng tử ( Quantum Universe )
và trong phần này chúng ta sẽ thấy rằng các vấn đề vũ trụ lượng tử đều trực
tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến những ý tưởng lớn , đặc biệt đến giấc mơ về
một lý thuyết thống nhất của Einstein.
Trước hết , chúng ta dừng lại
ở khái niệm Vũ trụ lượng tử ? [ 1
] : để hiểu được cấu trúc và quá trình
tiến triển của Vũ trụ người ta
phải nghiên cứu thuyết lượng tử vốn là
lý thuyết điều khiển hành vi của những hạt cơ bản , những thực thể vi mô
vì những hiện tượng vĩ mô đã quyện cùng
với những hiện tương vi mô thành một thực tế thống nhất .Có thể nói đây là một
cuộc cách mạng của thuyết lượng tử , của vật lý các hạt cơ bản khi đã thực hiện
một bước nhảy trong nhận thức của chúng ta đối với cái bí ẩn và cái đẹp của vũ
trụ . Hơn lúc nào hết các nhà vật lý ra sức tìm sự thống nhất giữa thuyết lượng
tử (điều khiển thế giới vi mô ) với lý
thuyết hấp dẫn ( điều khiển thế giới vĩ mô )
.Vũ trụ lượng tử có thể hiểu là thực thể thống nhất giữa vi mô và vĩ mô
, cũng có thể hiểu đó là giai đoạn của vật lý, trong đó lý thuyết lượng tử và
lý thuyết hấp dẫn có cơ hoà mình với
nhau thành một lý thuyết thống nhất , một Lý thuyết của tất cả ( TOE –
Theory of Everything ).
Sau đây chúng ta sẽ thấy
rằng trên đường nghiên cứu Vũ trụ lượng
tử , những ý tưởng của Einstein luôn là những ý tưởng kim chỉ nam cho các nhà
vật lý . Các ý tưởng đó làm thành giấc mơ xây dựng một lý thuyết thống nhất của
Einstein , một di sản vô giá cho vật lý hiện đại .
A /
Einstein đã gợi nhiều ý tưởng lớn
cho vật lý hiện đại
Trong suốt cuộc đời , ông đã
sáng tạo ra những điều khó trực cảm được trong thế giới bình thường , nhưng đó lại là những điều sâu
thẳm nhất về bản chất của thế giới , những điều mang lại những ứng dụng đa dạng
kỳ diệu cho cuộc sống.
Những thành tựu lớn lao của
Einstein :
Năm 1905 dựa trên khái niệm
lượng tử , ông giải thích hiệu ứng quang
điện ( giải Nobel năm 1921 ) , công trình này
cùng với nhiều công trình khác về lượng tử đã xếp Einstein vào những người đặt nền móng cho cơ học lượng tử.
Cùng năm vào tháng 9 ông công bố bài báo khai sinh lý thuyết tương đối
hẹp. “
Năm 1916 ông xây dựng lý
thuyết tương đối rộng . Nhà vật lý lý thuyết kiệt xuất Nga Lev Landau đã nói
đây là một trong những lý thuyết đẹp đẽ
nhất mà con người có thể sáng tạo ra . Lý thuyết tương đối rộng nối liền không thời gian với vật chất trong
phương trình mang tên Einstein :
G mn =8pGTmn
G mn mô tả hình
học của không thời gian ,Tmn mô tả vật chất
.
Sau đó ông để suốt cuộc đời
còn lại ( 1926-1955) để xây dựng lý thuyết thống nhất hấp dẫn và điện từ.
Ông đã mất nhưng các ý tưởng
của ông vẫn là những kim chỉ nam cho vật lý ngày nay. Thiên tài vĩ đại của Einstein làm cho người ta có cảm giác như ông
là một người thừa hưởng đuợc những tư tưởng sâu xa từ đâu đó để rồi chỉ cho
chúng ta những bước nghiên cứu trong một hai thế kỷ .
Sau đây hãy đề cập đến một số
ý tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đối với vật lý .
1 /
Einstein đã đưa vào phương trình nổi tiếng của mình hằng số vũ trụ , ông
đúng hay sai ? [ 2 ]
Năm 1917 , Einstein đứng
trước một bài toán đầy thách thức : cứu vãn tình huống khó khăn do ông nghĩ
rằng phương trình hấp dẫn của ông không chấp nhận những lời giải tĩnh ( static
) , lời giải mà ông cho rằng phù hợp để mô tả vũ trụ . Trong cơn tuyệt vọng ông
đã thêm vào phương trình hấp dẫn một số hạng được gọi là hằng số vũ trụ : Lgmn.
Năm 1922 nhà vật lý người Nga
Alexander Friedman tìm ra lời giải của phương trình Einstein (không chứa số
hằng số vũ trụ) ứng với một vũ trụ giãn
nở hoặc co lại , nghĩa là không ở trong trạng thái tĩnh .
Mười hai năm sau nhà thiên
văn người Mỹ Edwin Huble tìm ra hiện tượng vũ trụ giãn nở .
Trước những sự kiện đó
Einstein cho rằng việc đưa hằng số vũ trụ vào phương trình nổi tiếng của
ông là một sai lầm đáng ân hận nhất trong đời
.Như vậy ông từ bỏ số hạng đó và loại bỏ hẳn Lgmn trong phương trình
G mn + Lgmn =8pGTmn .
Song lại xảy ra một điều kỳ
lạ : để giải thích hiện tượng vũ trụ
giãn nở có gia tốc mà thiên văn quan trắc được trong thời gian gần đây thì các
nhà vật lý lý thuyết phải đưa lại hằng
số vũ trụ vào phương trình của Einstein ! Vậy trực quan của Einstein đã đưa
ông đi đúng đường .
Thầy tu người Bỉ , giáo sư
đại học Louvain , George Lemaitre đã nghiên cứu phương trình Einstein
với nhiều trị số khác nhau của L và năm 1934 ông đoán nhận L là năng lượng của chân không .Năm1967 nhà vật lý
người Nga Yakov Zel’dovich đã nhận thức được bản
chất vật lý của năng lượng chân không và khẳng định ý kiến của George Lemaitre
.
Nếu L ~ e > 0 thì có lực đẩy , như vậy năng lượng chân không
sẽ tạo ra giãn nở có gia tốc của vũ trụ .
Nhưng cũng phải nói rằng số
hạng vũ trụ bây giờ phải nằm về phía bên phải của phương trình để mô tả năng
lượng chân không của vũ trụ , nghĩa là liên quan đến tenxơ mô tả vật chất , chứ không nằm ở bên trái phương
trình để mô tả hình học của vũ trụ .
Như vậy là hằng số vũ trụ của
Einstein ở bên phải của phương trình gây nên
lực đẩy làm cho vũ trụ giãn nở có gia tốc . Số hạng này liên quan đến năng lượng chân không cho nên
có nguồn gốc lượng tử .Trong lý
thuyết lượng tử chân không không phải là một môi trường không có gì cả , mà đó
là một môi trường sôi động ở đó các hạt và phản hạt sinh và huỷ liên hồi .Người
ta có thể tính được năng lượng chân không này và thấy rằng năng lượng này 120
bậc lớn hơn ( 10 120 ) năng
lượng cần có. Kết quả tính toán quá lớn , cần phải có những lý thuyết để đưa đưa trị số của năng
lượng này về một trị số khác không song không quá lớn như thế .
Trong vũ trụ có 4 thành phần
: năng lượng tối ( dark energy ) gây lực
đẩy,vật chất tối ( dark matter ) gây lực hút , các sao , các thiên hà và cuối
cùng là các bức xạ .Nếu vũ trụ là phẳng
thì mật độ vật chất là mật độ tới hạn , có thể năng lượng tối tạo ra 2/3 mật độ tới hạn đó .Trong hai thập
kỷ qua lý thuyết lạm phát cộng với giả thuyết vật chất tối đã là cơ sở để giải
thích cấu trúc của vũ trụ , song bây giờ phải chú ý đến năng lượng tối mới mô tả được hiện tượng giãn
nở có gia tốc . Nếu năng lượng này dương thì vũ trụ giãn nở mãi , nếu nó trở
nên quá lớn thì nó xé rách các thiên hà , thái dương hệ , các hành tinh , các
phân tử , nguyên tử .Nếu năng lượng này
âm thì vũ trụ sẽ co lại .Vậy dường như số phận của vũ trụ được quyết định bởi
năng lượng tối này !
Năng lượng tối này có mối
liên quan gì đến năng lượng chân không ?
đến trường Higgs ? ( khi
tác dụng vào các hạt thì sinh ra khối lượng cho các hạt) .
Những câu hỏi đầy thách thức !
2 /
Einstein với lý thuyết thống nhất , và các chiều dư ( extra dimensions ) ngoài không thời gian[ 2 ] .
Như chúng ta biết sau khi xây
dựng xong lý thuyết tương đối hẹp và lý thuyết tương đối rộng ,trong cuối đời
Einstein đem hết tâm lực vào việc thống nhất tương đối rộng với lý thuyết điện
từ nhằm xây dựng một lý thuyết thống nhất , trong đó hấp dẫn và điện từ là hai
mặt của một trường , lý thuyết đó phải giải thích được sự tồn tại của các hạt ,
phải suy ra được các hằng số như điện tích của electron ,tốc độ của ánh sáng
.Ông không thành công trong việc xây dựng lý thuyết thống nhất vì chưa đến giai
đoạn để xây dựng một lý thuyết như thế
: lúc ấy người ta chưa biết đến
tương tác mạnh và tương tác yếu . Nhưng những ý tưởng ông đưa ra là đúng
đắn và sâu sắc .
Để thống nhất hấp dẫn và điện
từ Kaluza , Klein và sau đó Einstein với
Bergmann [ 3 ] đã đưa thêm chiều thứ 5 ,ngoài 4 chiều không thời gian để mô tả
điện từ , và đồng nhất điện tích với
thành phần thứ năm của xung lượng trong không gian 5 chiều . Chiều thứ 5 không thấy được vì nó cuộn tròn lại ( người
ta nói là compắc hoá lại ) , chiều này ứng với nhóm U(1) , mô tả điện từ . Kích
thước của những vòng tròn này biểu hiện
tỷ số tương đối của tương tác hấp dẫn và điện từ .Như vậy trong không
gian 5 chiều này chúng ta có thể tiếp cận đến
lý thuyết thống nhất có khả năng mô tả được lý thuyết hấp dẫn và điện từ
trong không gian 4 chiều .
Tư tưởng thống nhất các tương
tác của Einstein trong những năm gần đây được các nhà vật lý lý thuyết thể hiện
trong lý thuyết siêu dây , dựa trên siêu
đối xứng là đối xứng nối liền boson và fermion. Nhiều người hy vọng đây là lý thuyết
tối hậu có khả năng thống nhất 4 loại tương tác của thiên nhiên : hấp dẫn ,
điện từ , mạnh và yếu .Lý thuyết siêu dây gồm nhiều nhánh đổ về một lý thuyết
chung gọi là lý thuyết M . Sở dĩ lý thuyết này được gọi là lý thuyết M vì người
ta cho rằng nó sẽ là nơi bắt nguồn của
nhiều lý thuyết con khác ( M là chữ đầu của từ mẹ ),người ta cũng cho rằng đây
là một lý thuyết đầy ma lực (M ở đây
lại là chữ đầu của ma lực ) , người ta
còn có thể gán cho chữ M nhiều ý nghĩa
khác .Người ta hy vọng lý thuyết M sẽ là “lý thuyết của tất cả “ (theory
of everything – TOE ). Lý thuyết siêu
dây đã khôi phục lại ý tưởng
Kaluza-Klein và Einstein về không gian có số chiều nhiều hơn 4 .
Những chiều dư này cuộn tròn lại thành những vòng tròn với kích thước rất bé và
đang thoát khỏi sự quan trắc của những kính hiển vi siêu mạnh hiện nay . Sự
compắc hoá này thực ra có thể hình dung được vì chính các chiều không gian vĩ
mô hiện nay đang trải dài đến vô tận vốn cũng đã có kích thước vô cùng bé ở
những thời điểm sơ sinh của vũ trụ .
Hình 1 . Không gian ẩn của
các chiều dư .Thế giới của chúng ta có thêm các chiều dư. Mỗi điểm của không
gian vĩ mô ẩn chứa một đa tạp các chiều dư . Các quy luật vật lý quan sát được trong không gian vĩ mô
phụ thuộc vào kích thước và cấu trúc của đa tạp các chiều dư .
Trong lý thuyết siêu dây yếu
tố cơ bản là dây , chứ không phải là
điểm .Dây là một thực thể một chiều , những hạt cơ bản sẽ là những trạng thái kích
thích của dây . Kích thước của dây vào cỡ độ dài Planck, tức khoảng 10 – 33 cm , và những
dây này trông như những điểm nếu nhìn từ những kích thước lớn hơn độ dài Planck .
Để cho các phương trình của
lý thuyết được tương hợp về mặt toán học , các
dây này phải được dao động trong một không gian 10 chiều (hoặc 11 chiều
– nhánh siêu hấp dẫn ). Sáu chiều ( hoặc
7 chiều ) dư ra bị compắc hoá thành
những kích thước quá bé để có thể quan sát được .
Các chiều dư này đóng một vai
trò quyết định trong việc thống nhất lý thuyết hấp dẫn và cơ học lượng
tử của lý thuyết siêu dây .
Ngoài dây còn một đối tượng
tôpô quan trọng khác là màng ( brane suy từ chữ membrane) , có thể nói màng là
hình ảnh quỹ tích của các điểm mút của
các dây hở .Sau đây khi xét về sự thất
thoát của hấp dẫn sang các chiều dư , chúng ta sẽ thấy sự quan trọng của các
màng ở những phần sau ( hình 6 ).
Lý thuyết dây phức tạp hơn lý thuyết
Kaluza-Klein nhiều lần , song tư tưởng chủ đạo vẫn là một : các định luật
vật lý quan sát được phụ thuộc vào các chiều dư
vốn nằm trong trạng thái ẩn .
Điều gì quyết định hình học ? Câu trả lời là tương tự
như trong trường hợp hấp dẫn, hình học phải thoả mãn phương trình kiểu phương
trình Einstein ! Trong lý thuyết siêu dây lời giải không đơn trị : nhiều
hình học đều có thể là lời giải . Nếu có
một chiều dư thì chiều này có thể cuộn thành một hình tròn , song ở đây số chiều dư tương đối là nhiều nên ta
có thể có nhiều tôpô : hình cầu , hình xuyến , hoặc hai hình xuyến nối với nhau
thành hai tay quai , ba hình xuyến nối với nhau tạo raba tay quai và vân
vân (hình 1).
Các lời giải đó không như
nhau : mỗi lời giải có một thế năng xác định bởi cácthông lượng , các màng ,
các độ cong , nói chung bởi một số thông số .Đây chính là năng lượng chân không vì ứng với năng lượng
của không thời gian khi bốn chiều vĩ mô không chứa vật chất hoặc các trường
. Hình học các chiều dư có khuynh hướng
làm cho năng lượng này nhỏ nhất giống như trường hợp một quả bóng có khuynh
hướng lăn về vị trí thấp hơn .
Hiện nay dường như chúng ta
đang ở vào một cực tiểu với năng lượng
chân không dương. Vì có nhiều thông số
cho nên bức tranh năng lượng phức
tạp , nếu xét 2 thông số chúng ta có
một hình vẽ với các đồi và thung lũng như một phong cảnh , phong cảnh của lý
thuyết siêu dây ( hình 3 ). Danh từ phong cảnh do nhà vật lý lý
thuyết Leonard Susskin đưa ra .
Tại sao vũ trụ của chúng ta
đã chọn một thung lũng ,còn những thung lũng khác chỉ là những khả năng toán
học ? Có thể giải thích bằng 2 cách :
thứ nhất vũ trụ có thể không
bị mắc kẹt vào một cấu hình nào ,những quá trình lượng tử cho phép vũ trụ nhảy
từ cấu hình này sang cấu hình khác , thứ hai dựa trên lý thuyết tương đối tổng
quát của Einstein ,vốn là một bộ phận của lý thuyết siêu dây thì vũ trụ có thể
giãn nở , trở thành rất lớn và như thế nhiều vũ trụ tồn tại song song với nhau
trong dạng những vũ trụ con,và mỗi vũ trụ con đủ lớn để không cảm
nhận được sự tồn tại của các vũ trụ con khác , như thế câu hỏi tại sao vũ trụ
chúng ta chỉ chọn một thung lũng sẽ không còn nữa .
Hình 2 . Năng lượng của mỗi
lời giải trong lý thuyết dây được biểu diễn như hàm số của các thông số xác định
đa tạp ẩn các chiều dư .Nếu có chỉ một thông số thì chúng ta có một đường cong
, ở đường cong trên đây chúng ta 3 điểm cực tiểu .
Mỗi chân không ứng với mỗi
thung lũng được đặc trưng bởi một số thông số ,những thông số này có thể thay
đổi vì các quá trình lượng tử và ta có một bước nhảy sang một cấu hình khác .Nếu ở cấu hình này
năng lượng chân không là dương thì không gian laị giãn nở .Như vậy bigbang không là gì
khác ngoài một bước nhảy sang một cấu
hình mới trong bức tranh phong cảnh của lý thuyết siêu dây . Một ngày nào đó (
còn quá xa để chúng ta phải lo lắng ) vũ trụ của chúng ta lại thực hiện một
bước nhảy mới .
Có thể xảy ra trường hợp
trong vùng đang giãn nở lai có một bước nhảy
vào đấy và hình thành một vũ trụ con giãn nở khác .Hình ảnh giống như
trong một bong bóng nàylại có một bong bóng khác ( hình 4 ).
Hình 3 . Trên hình là bức
tranh phong cảnh biểu diễn năng lượng theo 2 thông số .Đa tạp các chiều dư được
biểu diễn tại đáy các thung lũng ứng với một chân không ổn định tương đối .
Hình 4 . Vũ trụ tổng thể là một bọt gồm nhiều bong bóng ,trong mỗi bongbóng lại có nhiều bong bóng đang giãn nở . Mỗi bong bóng có các định lwtj vật lý của riêng mình. Một số ít bong bóng có đủ điều kiện cho sự hình thành các cấu trúc phức tạp như thiên hà, như sự sống . Phần vũ trụ quan sát được của chúng ta ( khoảng 15-20 tỷ năm ánh sáng đường kính ) chỉ là một vùng nhỏ trong một bong bóng .
Như chúng ta đã thấy đối với
Einstein thì năng lượng chân không về mặt toán học là đồng nhất với hằng số vũ
trụ .Dùng lý thuyết trường lượng tử người ta tính thấy rằng năng lượng chân
không ứng với mật độ vào khoảng 10 94 gam /
cm 3 hay một khối lượng Planck /
l 3 , với l là độ dài
Planck . Ghi mật độ đó là LPlanck
.Kết quả này quá lớn và người ta cho đây là một kết quả sai lầm nổi tiếng trong vật lý học vì thực
nghiệm quan trắc quá trình dãn nở gia tốc của vũ trụ chỉ cho trị số không lớn hơn 10 – 120 LPlanck ,
như vậy năng lượng chân không gần bằng số không
.Trong bức tranh phong cảnh của lý thuyết dây các trị số của năng lượng
chân không biến thiên từ + LPlanck đến
- LPlanck . Người ta đã tìm được những lời giải với 10 500 cực tiểu
với năng lượng chân không phân bố ngẫu nhiên giữa hai trị số trên , như vậy nếu
đặt các cực trị đó trên một trục thẳng đứng thì khoảng cách trung bình giữa
chúng là 10 – 500 LPlanck và
các tác giả của lý thuyết siêu dây tính
được rằng phần lớn các trị số nằm giữa
số không và 10 – 120 LPlanck
.Điều này có nghĩa là bức tranh phong cảnh của lý thuyết siêu dây đã đưa
ra một giải thích được trị số rất nhỏ của năng lượng chân không .
Thật ra ý tưởng này không mới
, năm 1984 nhà vật lý người Nga Andrei Sakharov , giải Nobel đã cho biết rằng
hình học phức tạp của các chiều dư vốn ở trạng thái ẩn có thể tạo ra một phổ
năng lượng của chân không , phổ này có
thể chứa những trị số rất nhỏ quan sát được trong thực nghiệm .Nhiều tác giả
khác cũng đưa ra nhiều cách giải thích
vấn đề này.
Trở lại bức tranh phong cảnh
với các cực tiểu trong lý thuyết siêu dây .Ngưòi ta ví nhân loại như một người
lữ khách đi tìm các cực tiểu và ở đâu thích hợp cho quá trình phát sinh sự sống
thì dừng chân lại ,đây chính là nội dung của nguyên lý vị nhân ( anthropic
principle ).
Lý thuyết siêu dây dường như
trả lời được nhiều câu hỏi nhưng lý thuyết này liệu có phải là lý thuyết thống nhất tối hậu , lý
thuyết của tất cả -TOE chưa ?
3 /
Einstein đúng hay sai khi cho rằng cơ học lượng tử phải dẫn đến
một lý thuyết cổ điển? [ 2 ]
Những nhà vật lý đã có kinh nghiệm: mỗi lần cho
rằng Einstein sai lầm thì mỗi lần ông tỏ ra là đúng vì sâu sắc hơn . Chúng ta
nhớ rằng trong cuộc cách mạng lượng tử từ 1920 đến 1930 ông luôn có một thái độ
bi quan đối với cách đoán nhận của cơ học lượng tử ,mặc dù ông là một trong
những người đặt nền móng cho cơ học lượng tử . Ông nói : “ Tôi chẳng bao giờ
tin rằng Chúalại chơi trò súc sắc với số
phận của Vũ trụ “ .Chúng ta cũng đã biết lý thuyết lượng tử là một lý thuyết
đẹp ,cho những kết quả tuyệt vời được kiểm nghiệm bởi thực nghiệm với độ chính
xác cao .
Song hiện nay nhiều nhà vật
lý đã xét lại vấn đề và họ nghiêng theo quan điểm của Einstein : cơ học lượng
tử là một lý thuyết chưa hoàn chỉnh .Từ năm 1920 nhiều nhà vật lý đã đưa ra giả
thuyết về những tham số ẩn , một số phủ định tham số ẩn vì định lý
Bell khẳng định rằng một lý thuyết với
tham số ẩn định xứ – local không thể cho ta những tiên đoán của cơ học lượng
tử .
Vấn đề phi định xứ của cơ học
lượng tử đã được Einstein,Podolski & Rosen bàn đến trong một công trình
công bố năm 1935 , vấn đề này được gọi là bài toán EPR và hiện nay là cơ sở của
viễn tải lượng tử ( teleportation ) [ 4 ].
Các hạt phải có vị trí và
xung lượng xác định theo cơ học cổ điển
, nhưng chúng ta không quan sát được như vậy chỉ vì đã có những tham số ẩn tác
động vào .Hãy xét chuyển động Brownian , ở đây các hạt chuyển động dường như
hỗn độn , song như chính Einstein đã chứng minh sự hỗn độn này đã được gây ra
bởi sự tác động của những phân tử mà ta
không nhìn thấy theo đúng các định luật của cơ học cổ điển .Các phương trình
của cơ học lượng tử có mối tương tự với những phương trình của lý thuyết động
học các phân tử hay nói tổng quát hơn là của cơ học thống kê . Trong một cách
nói nào đó thì hằng số Planck chính là đại lượng tương tự của nhiệt độ .
Gần đây ý tưởng về các tham
số ẩn được Gerard ‘ t Hooft (giải Nobel
năm1999 vì hoàn chỉnh lý thuyết điện yếu
) phát triển ,theo ông thì vấn đề khác nhau giữa cơ học cổ điển và cơ học lượng
tử là vấn đề mất thông tin . Một
hệ cổ điển chứa nhiều thông tin hơn là một hệ lượng tử vì các biến số cổ điển
có thể lấy bất kỳ trị số nào trong khi
các biến số chỉ được phép lấy những trị số gián đoạn .Vậy một hệ cổ điển
sẽ biến thành một hệ lượng tử nếu thông tin bị mất . Sự mất thông tin này do
những lực phát tán ( dissipative ) gây
nên. Như vậy thiên nhiên là cổ điển ở mức chi tiết , song được nhìn ra như là
lượng tử vì sự tồn tại các lực phát tán
.
Berndt Muller ( đại học Duke
) đã đưa một ý tưởng khác về tham số ẩn : một hệ cổ điển trong không gian 5
chiều có thể biến dạng thành một hệ lượng tử trong không gian 4 chiều ,chiều dư
thứ năm chính là một tham số ẩn (hình 5 ).
Hình 5 . Đây là một hình ảnh
minh hoạ sự chuyển từ cơ học lượng tử sang cơ học cổ điển. Các hạt mang điện mà
từ đó các đường sức xuất phát ,thực chất chỉ là những ngoại ảnh của những lỗ
sâu đục trong một không gian nhiêù chiều hơn .
Những ý tưởng của Einstein có thể là nguồn gốc bùng nổ cho
nhiều vấn đề ,sau đây là 11 vấn đề mà
một số nhà vật lý đã chọn ra và cho rằng
đó là những vấn đề lớn nhất trong thế kỷ 21
.
B .Một số vấn đề lớn của
vũ trụ lượng tử thế kỷ XXI nhằm thực
hiện giấc mơ thống nhất của Einstein
Tổng hợp ý kiến của các nhà
vật lý và của tổ chức HEPAP ( High
Energy Physics Advisory Panel ) [ 1 ] mà
chủ tịch là giáo sư Frederick Gilman – Đại học Cargenie-Mellon chúng ta có sau đây một số vấn đề lớn của
vũ trụ lượng tử trong thế kỷ XXI . Tổ chức HEPAP đã tập hợp nhiều nhà vật lý thuộc nhiều lĩnh vực : hạt
cơ bản , hạt nhân , vũ trụ học , thiên văn học ,… Những vấn đề này quyện với nhau trong
một ý tưởng cứu cánh là tìm một lý
thuyết cho tất cả ( TOE – Theory of Everything ).
Nói cách khác tổng thể các
vấn đề lớn này nhằm mục đích thực
hiên giấc mơ thống nhất của Einstein .
Ze’ev Rosenkranz ,một nhà
nghiên cứu về Einstein đã nói :
Việc tìm tòi tiếp diễn vì
một” lý thuyết của tất cả “ ( TOE )
là di sản lớn nhất mà Einstein để lại cho khoa học ( The ongoing quest for a theory of everything is
Einstein ‘s most significant legacy to science ) [ 2 ].
Trong số các vấn đề lớn nêu ra , một số vấn đề liên
quan trực tiếp vào giấc mơ
Einstein, song để thực hiện giấc mơ đó
không thể không xét đến các vấn đề còn
lại , cho nên giấc mơ của Einstein đều trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến
những bài toán lớn sau đây:
1
/ Trong thiên nhiên còn tồn tại những đối
xứng nào mới , những định luật vật lý nào mới ?
Nhiều nhà vật lý cho rằng các
định luật vật lý không tồn tại trong không - thời gian. Giống như toán học ,
chúng có một đời sống riêng . Chúng mô tả vũ trụ ,song chúng không “nằm trong “ vũ trụ .Thực thế , nếu các định luật vật lý được
sinh ra cùng với vũ trụ , thì làm sao chúng ta lại có thể sử dụng chúng đề giải
thích vũ trụ đã sinh ra như thế nào ? Như vậy để có một cơ may hiểu được vũ trụ
đã xuất hiện như thế nào ,chúng ta phải chấp nhận rằng các định luật vật lý là
trừu tượng , trường cửu .Vậy các định luật vật lý từ đâu mà ra ? Tại sao là
những định luật này mà không là những định luật khác ? Đây là những câu hỏi
nghiêm chỉnh thuộc phạm vi siêu hình . Một
số tác giả cho rằng các định luật đã là như thế vì đòi hỏi logic ,một số khác
cho rằng tồn tại nhiều vũ trụ với những định luật vật lý khác nhau , và chỉ có
một số vũ trụ là có những định luật cần thiết cho quá trình phát sinh sự sống
và những sinh vật có khả năng nhận định các định luật đó.Các định luật vật lý
làm thành cơ sở của một tập logic giống như các định đề Euclide là cơ sở của
một tập logic mà chúng ta gọi là hình học Euclide .Chúng ta có quyền không chấp nhận các định
đề Euclide , song các định đề này đơn giản nhất để xây dựng một hình học và có
thể các định luật vật lý ta dùng thoả mãn tính đơn giản đó để giải thích vũ trụ
. Khi gặp những vấn đề khác không giải thích được ta phải tìm ra những định đề
khác – những định luật khác ! [ 5 ]
Quá trình tiến triển của vũ
trụ dính liền với những đối xứng .
Một số đối xứng đã mất đi từ
lúc bigbang , một trong các đối xứng như thế có thể là siêu đối xứng
(supersymmetry ), đối xứng nối liền fermion và boson . Đối xứng này là một yếu tố cơ bản của lý thuyết siêu dây .Các
máy gia tốc sẽ kiểm nghiệm vai trò của siêu đối xứng trong lý thuyết thống nhất
, trong đó có vấn đề xác định xem hạt neutralino có thuộc vật chất tối hay
không .Hạt neutralino là một siêu hạt = tổ hợp các siêu hạt Zino + Photino +
Higgsino . Khối lượng các siêu hạt có thể liên quan đến trường Higgs .
Những đối xứng , những định
luật vật lý mới có liên quan như thế nào đến các chiều dư ?
2 2 / Chúng ta sẽ phải giải quyết sự bí ẩn của năng
lượng tối như thế nào ?
Những
quan trắc hiện đại ( năm 1998 ) về sự bùng nổ của các sao ở khoảng cách xa (
supernovae ) chỉ tỏ rằng có một
lực bí ẩn đang gia tốc quá trình giãn nở của vũ trụ . Một nguồn gốc khả dĩ của lực này là năng lượng chân không .Song những phép tính đã cho một trị số quá lớn 10 120 lần lớn hơn trị số quan
trắc được . Như trên đã thấy lý thuyết siêu dây
cho một cách giải thích vấn đề này, song người ta vẫn xem xét đến những
giả thuyết khác như giả thuyết về quintessence .
Năng lượng tối có thể nối liền với hằng số vũ trụ của Einstein . Người ta cho rằng trường Higgs chiếm đầy khoảng
chân không . Vậy năng lượng tối có thể
liên quan đến trường Higgs .
Người
ta đưa vào mật độ năng lượng chân
không e L tỷ lệ với hằng số vũ trụ L trong phương
trình Einstein
L = (8 p G / 3c2 ) e L
còn r thì nối liền với thông số mật độ W
W = (8
p G / 3 H2 c2
) e
ở trên đây
H là hằng số Hubble . Thông số mậtđộ
W =W vật chất
+W bức xạ + WL .
Khi W < 1 thì không gian có độ cong âm , khi W thì không gian có độ cong dương , còn khi W = 1 thì không gian phẳng.
Có thể đưa ra sơ đồ khả dĩ
của 2 khả năng sau đây cho năng lượng
tối:
trong đó quintescence là một một loại hạt
giả tưởng chiếm đầy vũ trụ ( ứng với một trường lượng tử ) .
Quintessence là một danh từ
lấy từ luyện kim thuật ( alchimie ) mang
ý nghĩa là loại chất thứ năm .Trong
triết học cổ điển những người Hy lạp cổ xưa đã tìm ra năm hình đa diện có
6,8,4, 20 và 12 mặt. Năm hình đa diện đều này đóng một vai trò quan trọng trong
lịch sử phát triển khái niệm đối xứng
.Người Hylạp xem chúng là những viên gạch cơ bản cấu thành vũ trụ : họ gắn liền
đất với hình 6 mặt , không khí – hình 8 mặt, lửa - hình 4 mặt , nước- hình 20
mặt và một loại chất liệu vũ trụ – hình 12 mặt .
Trong vật lý hiện đại một số
các nhà vật lý đưa ra 5 yếu tố của vũ
trụ : baryon, neutrino ,photon , vật
chất tối , và quintessence (một khả năng khác của năng lượng tối , ngoài khả
năng hằng số vũ trụ ) .
Theo sơ đồ nêu trên chúng ta
thấy có 2 khả năng để xét vấn đề năng lượng tối ,trong đó khả năng sử dụng
quintessence cũng có nhiều điểm duy lý ,được nhiều nhà vật lý chú ý
.Quintessence tạo ra một trường khi tương tác với vật chất thì thay đổi theo
thời gian . Điểm này làm cho quintessence dễ thích hợp với các trị số quan sát
được đối với năng lượng tối . Theo quan trắc thiên văn có thể năng lượng tối
chỉ phát huy tác dụng cách đây khoảng 6 tỷ năm .
Như ta biết phương trình
trạng thái của chân không có dạng p = -e , trong đó p là áp suất còn e là mật độ năng lượng . Đối với quintessence thì
phương trình trạng thái p / e = q với -1 <
q < -1/3 . Một phương trình
trạng thái như thế dẫn đến phản hấp dẫn ( antigravity ) p <
0 và e gravity
< 0 [7] &[ 8 ] .
Nếu số q < - 1 thì sẽ đến
một lúc phản hấp dẫn lớn đến mức xé rách mọi thiên hà , mọi nguyên tử , mọi vật
chất ,đó là sự cố BIG RIP .
Còn một giả thuyết giải thích
quá trình nở có gia tốc hiện nay là sử dụng các chiều dư ( extra dimension )
trong lý thuyết siêu dây (
xem sau đây ) .
3
/ Tồn tại chăng những chiều dư ( extra
dimensions )?
Lý thuyết siêu dây có hy vọng
thực hiên giấc mơ thống nhất của Einstein . Các siêu dây có tồn tại hay chăng ?
Lý thuyết này đã đưa ra 6 đến 7 chiều dư
ngoài 4 chiều không thời gian . Vậy có bao nhiêu chiều dư ? kích thước ,
hình dạng như thế nào ? Và những hạt gắn với những chiều dư này là những hạt gì
? Có tồn tại những chiều dư vĩ mô hay không ? Chúng có liên quan gì đến những
lỗ đen ?
Một số tác giả cho rằng hiện
tượng gia tốc hiện nay của vũ trụ không phải gây nên chỉ bởi năng lượng tối mà
còn bởi sự lan truyền , rò rỉ hấp dẫn
vào những chiều dư [8].
Thế năng của một số trường có
khả năng gây ra một hiệu ứng tương tự như hằng số hấp dẫn (ví dụ inflaton ) hay
quintessence , song những giả thuyết như vậy vẫn nằm trong phạm trù năng lượng
tối .Liệu có thể không dùng năng lượng tối , chỉ dùng hiện tượng rò rỉ hấp dẫn
sang các chiều dư để giải thích hiện tượng giãn nở có gia tốc của vũ trụ ?
Như trên đây đã nói trong lý
thuyết siêu dây ,màng ( brane ) là một đối tượng tôpô quan trọng .Các hạt như electron , proton , neutron … là những dao động
của những dây hở , đầu mút các dây này bị dán vào màng vốn là chỗ cư trú của
thế giới chúng ta ,trong khi đó graviton , lượng tử của hấp dẫn lại là dao
động của những dây kín , không có đầu mút , cho nên graviton có khả năng
thoát khỏi màng và truyền lan sang các
chiều dư .Như vậy chỉ riêng tương tác hấp dẫn là có thể thất thoát khỏi
màng và người ta chứng minh rằng các
graviton có bước sóng dài dễ dàng lan truyền sang các chiều dư ( hình 6 ).
Hình 6. Vũ trụ của chúng ta
nằm trong một màng ( brane ).Hấp dẫn có thể thoát ra khỏi màng và lan truyền
sang các chiều dư ( extra dimension ) .
Nếu hai thiên hà ở rất xa
nhau thì các graviton trao đổi giữa chúng là những graviton có bước sóng dài ,
loại graviton này sẽ thất thoát sang các chiều dư do đó lực hấp dẫn trở nên yếu
, định luật hấp dẫn không còn là 1 / r 2 nữa ( trong không gian n
chiều thì định luật hấp dẫn sẽlà 1/ r n-1 ). Đây là một điều kiện cho sự giãn nở có gia tốc,
ngoài ra các tác giả Cedric Deffayet , Gabadadze và Georgi Dvali còn chứng minh
rằng các chiều dư sẽ dẫn đến giản nở có gia tốc
[9] . Thực vậy trong lý thuyết nhiều chiều , những chiều dư sẽ tạo nên
một số hạng mới trong các phương
trình làm cho độ cong của màng thay
đổi , hiệu quả là
: hấp dẫn rò rỉ vào các chiều dư tạo nên thêm một
độ cong bất khả quy (irreducible) trên
màng mà không phụ thuộc vào mật độ vật chất và năng lượng trên màng! Và độ cong này tác dụng như một hằng số hấp
dẫn và làm cho vũ trụ giãn nở có gia tốc .
4
/ Các lỗ đen
Trong vật lý hiện đại , các
lỗ đen ứng với những lời giải của phương
trình Einstein ( Schwarzschild , Reissner –Nordstrom, Kerr
,Kerr-Nordstrom,…).Theo lý thuyết của Einstein ,khi một vật thể bị nén
đến một mức độ nào đó thì nó biến
thành lỗ đen ( hình 7) ; trường hấp dẫn
của lỗ đen làm cong không thời gian
nhiều đến nỗi không cho bất kỳ một vật gì có thể thoát ra ngoài , (thậm chí ánh
sáng ) nếu vật đó rơi vào sau chân trời sự cố
của lỗ đen . Chân trời sự cố của lỗ đen là ranh giới có vào mà không có ra của lỗ đen .
Theo những lý thuyết hiện đại
như lý thuyết siêu dây thì có thể tồn tại
những chiều dư ( extra dimension ) ngoài 4 chiều không- thời gian , số chiều dư này có
thể là 6 hoặc 7. Nếu không tính đến những chiều dư thì kích thước của lỗ đen tỷ
lệ với khối lượng của nó.
Nếu chúng ta nén mặt trời đến
một bán kính chỉ còn 3 kilômét ( chỉ còn 1 / 4.000.000 bán kính hiện nay ) thì
mặt trời sẽ trở thành một lỗ đen ! Quả đất của chúng ta cũng sẽ có một số phận
như vậy , nếu chúng ta nén nó đến một bán kính bằng 9 milimét .
Hình 7 . a / Lỗ
đen hút vật chất từ các sao chung quanh
b
/ Nếu một nhà phi hành vũ trụ rơi
vào lỗ đen thì cơ thể sẽ bị kéo dài
thành
dạng một sợi dây .
Với một lỗ đen có khối lượng
bằng khối lượng mặt trời thì mật độ vật chất bằng vào khoảng 10 19
kg / m 3 , mật độ này cao hơn
mật độ của vật chất trong hạt nhân .
Stephen W. Hawking và Bernard
J.Carr đã nghiên cứu sự hình thành những
lỗ đen trong thời buổi sơ sinh của vũ trụ ,những lỗ đen này gọi là những lỗ đen nguyên thuỷ . Khi vũ trụ hình thành, mật độ
vật chất rất cao . Các định luật vật lý cho phép mật độ vật chất đạt đến trị số Planck
10 97 kg / m 3 . Trong những điều kiện mật độ cao
lý thuyết tương đối tổng quát cho phép
hình thành những lỗ đen có bán kính 10 – 35 mét ( kích thước này gọi
là độ dài Planck ) với khối lượng bằng 10 – 8 kg ( xem hình 9 ).
Đây là những lỗ đen nặng hơn
nhiều song nhỏ hơn nhiều so với các hạt cơ bản .
Trong quá khứ để cho các lỗ
đen nguyên thuỷ được hình thành , cần có sự thăng giáng vật chất tạo nên những
vùng có mật độ vật chất cao so với chung quanh .
Bức xạ Hawking
Năm 1974 , Hawking đưa ra lý
thuyết về bức xạ của lỗ đen : đólà bức xạ Hawking
. Theo lý thuyết này , lỗ đen bức xạ giống như một hòn than nóng , với nhiệt độ
tỷ lệ nghịch với khối lượng . Ví dụ với một lỗ đen có khối lượng bằng 10 12
kg thì nhiệt độ tương ứng sẽ là 10 12 độ Kelvin và lỗ đen sẽ bức xạ các hạt không có khối
lượng như photon và các hạt có khối lượng như electron , proton .
Vì bức xạ mang theo năng
lượng cho nên khối lượng của lỗ đen tiêu hao dần . Càng tiêu hao khối lượng thì
nhiệt độ của lỗ đen càng lớn và bức xạ dồn dập . Khi khối lượng chỉ còn chừng
10 6 kg thì lỗ đen nổ trong vòng một giây để thoát một năng lượng
bằng năng lượng của một triệu quả
bom nguyên tử megaton . Thời gian để một lỗ đen bay hơi hết
tỷ lệ với lập phương khối lượng , ví dụ đối với một lỗ đen với khối lượng 10 12
kg mặt trời , thời gian bay hơi là khoảng 10 10 năm ,nhiều lỗ đen
nguyên thuỷ đã bay hơi trong lịch sử của vũ trụ .
Trong hiện tại người ta phân
biệt 2 loại lỗ đen :
Các lỗ đen stellar là những
sao lớn co sụp vì hấp dẫn ở cuối đời .Các nhà vật lý ước tính trong thiên hà
chúng ta có khoảng 10 triệu lỗ đen này ,khối lượng cỡ vài chục khối lượng mặt
trời .
Các lỗ đen galactic hiếm hơn
nằm vào tâm của những thiên hà , đó là những lỗ đen siêu khổng lồ , khối lượng
có thể đạt đến tỷ lần khối lượng mặt trời .Hiện nay các quan trắc cho thấy rằng
tại tâm mỗi thiên hà đều có một lỗ đen galactic ! Trong thiên hà của chúng ta
có một lỗ đen galactic núp mình trong chòm Sagittaire .
Những vấn đề liên quan đến lỗ
đen :
a . Từ
các lỗ đen siêu khổng lồ bắn ra những tia plasma cực lớn với tốc độ gần tốc độ
ánh sáng, hiện nay hiện tượng này còn là một bí ẩn ( hình 8 ),[10 ]
Hình 8 . Hiện tượng còn là bí
ẩn: các lỗ đen siêu khổng lồ bắn ra những tia plasma .
b . Lỗ
đen liên quan đến những quá trình tương tác hấp dẫn với sự tham gia của những
khối lượng lớn ( nuốt vật chất của lỗ đen , va chạm giữa hai lỗ đen ) , các quá
trình này sẽ phát ra sóng hấp dẫn ( sóng hấp dẫn đã được tiên đoán bởi Einstein
năm 1916 ). Vậy “lắng nghe” các lỗ đen có thể ghi được “bản nhạc” của
sóng hấp dẫn phát ra từ những lỗ đen . Các dự án VIRGO ( Italia ), LIGO ( Mỹ )
,LISA ( Nasa, European Space Agency ) đang sử dụng những thiết bị hiện đại để
đo sóng hấp dẫn từ những lỗ đen .
c . Liệu
có thể chế tạo lỗ đen trong phòng thí nghiệm ?
[ 11 ]
Khi nói đến lỗ đen , người
ta nghĩ đến những vật thể với khối lượng
khổng lồ có khả năng nuốt những con tàu vũ trụ , những sao chung quanh .
Nhưng liệu những lỗ đen có thể chế tạo được nhờ những máy gia tốc năng lượng
cao , ví dụ máy LHC ( Large Hadron Collider ) sẽ vận hành tại trung tâm CERN
,gần Geneva vào năm 2007 ? Chúng ta đang nói ở đây về những lỗ đen vi mô , có
kích thước so sánh được với những hạt cơ bản .
Chế tạo lỗ đen trên máy
gia tốc
Việc chế tạo được lỗ đen
trong phòng thí nghiệm sẽ mở ra nhiều khả năng nghiên cứu lỗ đen một cách hiệu
quả .Trên máy LHC một proton có thể được gia tốc đến năng lượng 7 tera
electron –volt,năng lượng này theo công thức nổi tiếng của Einstein E=mc
2 tương đương với khối lượng 10 -23 kg ( 7.000 lần
khối lượng của proton ) .Khi hai hạt va chạm nhau , năng lượng của chúng sẽ tập
trung vào một vùng không gian rất nhỏ . Cho nên người ta hy vọng rằng sự va chạm của hai hạt như thế có thể dẫn đến
sự hình thành một lỗ đen .
Song khối lượng 10 -23
kg còn quá khiêm tốn với trị số Planck 10 – 8 kg ( trị số nhỏ nhất
có thể của một lỗ đen ,xem hình 9 ) .Muốn cho một hạt vừa có năng lượng rất cao
vừa phải có kích thước cômpắc để có thể
tạo nên một lỗ đen , hạt cần phải có năng lượng Planck nghĩa là cần một năng
lượng lớn hơn năng lượng của LHC khoảng 10 15 lần !
|
|
Hình 9 . Hình trên biểu diễn mối liên hệ giữa khối lượng và kích
thước. Trong không gian 9 chiều, điểm giao nhau giữa cơ học lượng tử và sự hình thành lỗ đen thực chất sẽ
xảy ra ở năng lượng thấp hơn (10 - 23 kg thay vì 10 -8kg
ở không gian 3 chiều , xem hình 6)
A – vùng cấm của cơ học lượng
tử
B – vùng cấm của lý thuyết
tương đối
Trong những nghiên cứu gần
đây , các nhà vật lý cho rằng đòi hỏi năng lượng Planck là một đòi hỏi quá cao
. Vấn đề mấu chốt ở điểm sau này . Theo lý thuyết dây ( một lý thuyết được xem
là có khả năng trở thành TOE –Theory Of Everything ), ngoài không- thời gian 4
chiều còn có những chiều dư ( extra dimension) .Hấp dẫn ,không giống như những
lực khác ,có khả năng truyền dẫn trong những chiều dư ấy . Trong không gian 3
chiều lực hấp dẫn tăng lên 4 lần nếu ta giảm khoảng cách giữa hai vật xuống còn
một nửa ,song trong không gian 9 chiều lực hấp dẫn tăng lên 256 ( = 2 8 ) lần . Hiệu ứng này trở
nên rất quan trọng nếu các chiều dư đủ lớn ( vấn đề này được nghiên cứu bởi
những tác giả Nima Arkani-Hamed , Savas Dimopoulos & Georgi Dvali ),hoặc
các chiều dư bị cômpắc hoá cuộn tròn như trong lý thuyết dây .Điều này làm tăng
lực hấp dẫn và làm cho điểm giao nhau giữa cơ lượng tử và sự hình thành lỗ đen
thực chất sẽ xảy ra ở năng lượng thấp hơn ( xem hình 9 ). Mặc dầu chưa có những
chứng cứ thực nghiệm về điểm này , song ý tưởng này
đã tạo ra một tia sáng cho vấn đề chế tạo lỗ đen ngay trên máy gia tốc LHC .
Những tính toán đầu tiên cho
những kết quả đáng ngạc nhiên : lỗ đen có thể được chế tạo với tần suất 1lỗ đen
/1 giây và với tần suất đó thì LHC có
thể được gọi là xưởng ( factory ) chế tạo lỗ đen .
Các triển vọng của chế tạo
lỗ đen
Các lỗ đen chế tạo ra có nguy
hiểm không ? Chúng có thể lớn dần lên và nuốt cả quả
đất của chúng ta không ? Theo tính toán của Hawking thì các lỗ đen đó sẽ
bay hơi và do đó an toàn . Nhưng nếu Hawking sai thì sao ?
Thật ra sử dụng những lý luận khác cho thấy rằng lỗ
đen vi mô sẽ phân rã và vô hại . Những định luật bảo toàn sẽ ngăn cấm không cho
hạt phân rã , ví dụ định luật bảo toàn điện tích , bảo toàn số baryon ( có một
phần bị vi phạm ) làm cho proton là hạt rất bền. Với lỗ đen vi mô , không có
một định luật bảo toàn nào cho nên chúng sẽ phân rã .
Ngoài ra những va chạm tương
tự như những va chạm trong LHC đã xảy ra nhiều (trước đây và bây giờ ) trong vũ
trụ . Theo các ước tính của Giddings và Thomas , tia vũ trụ với năng lượng cao
( đến 10 9 Tev ) có thể tạo nên những lỗ đen với tần số 100 lỗ đen / 1năm.
Việc chế tạo ra những lỗ đen
trong phòng thí nghiệm sẽ mở ra một chân trời mới đối với vật lý .Nếu chế tạo được lỗ đen trong LHC ,
thì điều này chứng tỏ được sự tồn tại
các chiều dư ngoài 4 chiều không- thời gian .Các nhà vật lý sẽ có điều kiện để
nghiên cứu những chiều dư đó ; nếu một phần lỗ đen chui vào các chiều dư thì
mối liên quan giữa nhiệt độ và khối lượng sẽ thay đổi và khác với mối liên quan
đó trong không gian 3 chiều.
Trong nhiều thế kỷ các nhà
vật lý đã đẩy sâu giới hạn nghiên cứu từ nguyên tử đến proton, neutron , rồi đến quark , nếu họ chế tạo được
lỗ đen thì họ đã tiến đến thang Planck , vốn là thang tối vi của kích thước,
dưới thang đó khái niệm về không-thời gian không còn tồn tại nữa ! Như vậy
việc chế tạo được lỗ đen vi mô trong phòng thí nghiệm sẽ đánh dấu ranh giới của
một nền vật lý . Sau ranh giới đó là vương quốc của những chiều dư ( extra
dimension ) .
5
/ Các lực trong thiên nhiên có thống
nhất được thành một lực duy nhất hay không?
Rất có thể lực
thống nhất này nối liền quark với lepton và có khả năng biến một loại hạt
này sang một loại hat khác .
6/ Vì sao có nhiều loại hạt đến thế ?
Các nhà vật lý
đã xác định được 57 loại hạt ,có thể
chăng các hạt này là những
nốt nhạc của
siêu dây ? Chúng ta cũng đã tìm ra 3 gia đình ( và tại sao chỉ 3)
quark và
lepton ,vì sao khối lượng của chúng cách
biệt nhau đến như vậy .
Hạt neutrino
cũng là một hiện tượng bí ẩn , việc hạt
neutrino có khối lượng nói
rằng có một
vùng vật lý nằm ngoài Mô hình chuẩn ( Standard Model ).
7/ Vật chất tối là gì? Có thể
chế tạo nó trong phòng thí nghiệm được không ?Một
phần lớn vật chất trong
vũ trụ là vật chất tối , không có vật chất tối thì không có
sao, có thiên hà có sự
sống .Vật chất tối đã giữ
chặt vũ trụ lại . Chúng ta có thể
chế tạo được vật chất tối trong các máy gia tốc ? Siêu hạt nhẹ
nhất
trong siêu đối xứng ,hạt nhẹ nhất chuyển động
trong các chiều dư ,hạt axion
trong lý thuyết QCD ,có thể thuộc về vật chất
tối ?
70 năm đã trôi qua mà bài toán vật chất tối – một trong những bài toán cơ
bản của vật lý - vẫn chưa có lời giải !
Vào những năm 30 của thế kỷ trước Fritz Zwicky , một nhà thiên văn trẻ tuổi
người Thuỵ sĩ lập nghiệp ở Mỹ ,khi nghiên cứu chuyển động 7 thiên hà trong chòm
Coma ,nhận thấy rằng 7 thiên hà này chuyển động quá nhanh so với tính toán thực
hiện trên cơ sở các khối lượng quan sát
được xung quanh . Muốn giải thích được chuyển động nhanh đó , xung quanh 7
thiên hà nói trên cần phải có một khối
lượng vật chất 400 lần lớn hơn khối lượng quan sát được , nhưng
khối lượng thiếu này không tìm thấy ở đâu cả . Bài toán vật chất tối
( dark matter ) ra đời (1933). [ 12 ]
Năm 1970 nhà nữ thiên văn người Mỹ Vera Rubin , khi nghiên cứu tinh
vân Andromeda đã nhận thấy rằng vận tốc
quay ở tâm thiên hà không phù hợp với
khối lượng biểu kiến của chúng . Trong những năm sau : 1986 ,2000 & 2003
các nhà thiên văn Mellier ,Fort ,Soucail , Pierre-Alain Duc và Frederic
Bournaud khi nghiên cứu về các thấu kính hấp dẫn và mô phỏng sự va chạm của các
thiên hà đều đi đến một kết luận là tồn tại một khối lượng vật chất khổng
lồ chưa nhìn thấy được bằng các phương
tiện hiện đại , đó là vật chất tối.
Như vậy trong vũ trụ có 4 thành phần : năng lượng tối ( dark energy ) gây lực đẩy,vật chất tối (
dark matter) gây lực hút , các sao , các
thiên hà và cuối cùng là các bức xạ . Vật chất tối có thể chiếm đến 30 % mật độ
tới hạn (tức mật độ ứngvới lúc không thời gian là phẳng ).
Vật chất tối có thể là một loại vật chất mà chúng ta chưa hề biết đến. Nhiều nhóm các nhà vật lý đã được thành lập
để tìm kiếm , phát hiện vật chất tối như: nhóm CDMS (Cryogenic Dark Matter ) của Đại học Stanford , California ,Mỹ , nhóm
DAMA (Dark Matter Experiment) của Trung quốc – Ý và nhiều nhóm khác với những
thiết bị hiện đại thường nằm sâu dưới lòng đất để loại bỏ phông nhiễu loạn
ngoại lai.
Hiện nay người ta hình thành quan điểm sau .Vật chất tối gồm 2 thành phần .
Thành phần thứ nhất là thành phần
baryonic ( như vật chất thông thường ) gọi là MACHO ( Massive Compact Halo
Objects ) vì người ta cho rằng quanh các thiên hà có một quầng (halo)vật chất
tối , có thể phát hiện được nhờ những hiệu ứng thấu kính hấp dẫn đặc trưng .Trong MACHO có thể có
những sao lùn nâu ( brown dwarf ) ,những sao này không đủ lớn và nóng
đến mức phát ra ánh sáng .
Thành phần thứ hai không phải là vật chất thông thường gồm những hạt mới lạ
(exotic) chưa tìm ra được : axion , WIMPs ,hạt đối xứng gương …
|
|




|

Axion là hạt giả định do nhà vật lý Peccei-Quinn đưa ra để giải thích hiện
tượng phá vỡ đối xứng CP . WIMPs
(Weakly Interacting Massive Particles ) là những hạt suy ra từ siêu đối xứng
tức đối xứng nối liền fermion và boson , hạt nhẹ nhất trong các WIMPs là
neutralino . Hạt đối xứng gương do Lee & Yang đề xuất .
Một số tác giả muốn phủ nhận sự tồn tại của vật
chất tối , họ đưa ra cách tiếp cận sửa đổi định luật hấp dẫn của Newton
(MOND-Modified Newtonian Dynamics), hướng nghiên cứu này dường như có ít triển
vọng (có khó khăn với lý thuyết tương
đối của Einstein ).
Phát hiện vật chất tối là một trong những vấn đề cơ bản của vật
lý thế kỷ 21 .
8/ Hạt neutrino
sẽ cung cấp cho chúng ta những gì?
Hạt
neutrino là một hạt bí hiểm , chúng tương tác rất yếu với vật chất .Hàng
tỷ
tỷ neutrino
đi qua cơ thể chúng ta trong mỗi giây nhưng không để lại một dấu
vết gì . Sự
tồn tại khối lượng của neutrino có thể dẫn đến một vùng vật lý mới
chưa biết
đến , có thể thuộc lý thuyết thống nhất .
Một số bài
toán liên quan đến neutrino :
-
năng lượng tối có dính dáng gì đến neutrino ?
-
một số tác giả ( David Kaplan , Robert Fardon, Ann Nelson & Neil
Weiner , đại học Washington ,Seatle )
đưa ra giả thuyết khối lượng neutrino thay đổi MaVaNs (Mass Varying Neutrinos )
và điều này có thể dẫn đến giãn nở gia tốc của vũ trụ . Như chúng ta biết có 3
loại neutrino và các neutrino dao động ( oscillation) ,chuyển từ loại này sang
loại kia .Vì sao? Nhóm Seatle cho rằng do sự tương tác của neutrino với một
loại hạt mới nào đó ( một trường vô hướng tương tự quintessence ) còn chưa biết
.Ngoài ra sự tương tác này gây nên sự gia tăng khối lượng của neutrino theo
thời gian .Và phức hợp neutrino-
trường vô hướng làm thành một loại chất lỏng với p < 0 , và gây nên sự giãn
nở gia tốc của vũ trụ Theo Gia
Dvali , đại học New York , neutrino là
một thành phần quan trọng của năng lượng tối .
Như vậy năng lượng tối bằng năng lượng của trường
vô hướng + tổng khối lượng của neutrino . Nếu khối lượng neutrino tăng dần thì
năng lượng tối cũng tăng dần theo đến một lúc có thể áp đảo lực hút của hấp dẫn , và gây nên giãn nở
gia tốc của vũ trụ ? Trong thực tế giãn nở gia tốc đã xảy ra khoảng 6 tỷ năm .
9
/ Vũ trụ đã hình thành như thế nào ?
Theo
những lý thuyết hiện đại vũ trụ được khai sinh từ một vụ nổ lớn Bigbang cách
đây
chừng
14 tỷ năm.
Một
câu hỏi thường gặp : trước Bigbang là gì ? [ 5 ]
Thực ra không có điều gì
có trước Bigbang . Chúng ta thường hình
dung vũ trụ đã
nổ ra từ một điểm vật
chất . Song một hình ảnh đúng đắn hơn của vũ trụ giãn nở là một
quả bóng có độ đàn hồi
tuyệt đối đang bị thổi phồng lên , hai vùng nằm trong và ngoài
quả bóng không tồn tại
và không ứng với những thực tại nào của
vũ trụ .Khi quả bóng co
lại thành một điểm thì đấy là điểm xuất phát ban đầu Bigbang .Nên chú ý
rằng vũ trụ không giãn nở trong một
“không gian “ nào cả: bản thân không gian sẽ được tạo nên trong quá
trình giãn nở của vũ trụ . Stephen
Hawking đã so sánh câu hỏi : điều gì có trước Bigbang ? với câu hỏi : điều
gì có ở phía Bắc của cực Bắc ?Vì
phía Bắc của cực Bắc không tồn tại cho nên không có gì ở đấy cả .
Một câu hỏi khác : không
gian và thời gian đã được hình thành như thế nào ?
Hiện nay nhiều nhà vật lý
quan niệm rằng không – thời gian được hình thành từ những
thăng giáng lượng tử của
chân không ( hình 10).
Hình 10 . Các thăng giáng của chân không lượng tử
(phỏng theo tranh Bọt thời gian của hoạ sĩ Jean-Michel
Joly , L’Ecume du temps,
Lúc vũ trụ được 10 – 35
giây xảy ra quá trình nở lạm phát ( inflation ) và kết thúc vào thời điểm 10 – 32
giây .Đây là một quá trình giãn nở bột phát của vũ trụ :.trong một thời đoạn
ngắn ngủi , kích thước của vũ trụ đã tăng lên 10 50 lần .Quá trình nở lạm phát có thể bắt nguồn
với một dạng năng lượng tối. Dạng năng lượng này có đóng vai trò gì trong lý
thuyết thống nhất ? Có mối liên quan gì
đến sự tồn tại của hạt Higgs và với các chiều dư?
Sau Bigbang 10 – 33
giây vũ trụ ở vào trạng thái plasma của quark và gluon (PQG ).Trong trạng thái
này quark chuyển động tự do và tương tác
với nhau bằng trao đổi gluon . Ngày 10 / 02 / 2000 trung tâm CERN tuyên bố đã
thu được PQG trong phòng thí nghiệm sau 15 năm nghiên cứu .
Lúc vũ trụ được 10 – 6
giây thì hình thành các hadron.
Lúc vũ trụ được 100 giây thì
các hạt nhân nguyên tử được hình thành .
Lúc vũ trụ được 300.000 năm
tuổi thì bức xạ tách khỏi vật chất và dẫn đến CMB ( Cosmic Microwave Background
– bức xạ tàn tư của vũ trụ )
Sau đó vũ
trụ nguội dần và nhiều quá trình
chuyển pha đã xảy ra , những quá trình
chuyển pha này có thể dựng lại trong
phòng thí nghiệm nhờ những máy gia tốc năng lượng cao .
Quá trình
chuyển pha điện yếu đã gây nên sự bất đối xứng vật chất – phản vật chất. Trong
quá trình chuyển pha ứng với sắc động lực học lượng tử QCD ,vật chất
baryonic ngưng tụ thành dạng plasma của quark-gluon .
Người ta muốn
kiểm nghiệm tất cả các quá trình này trong phòng thí nghiệm .
10 /
Điều gì đã xảy ra với phản vật chất ?
Tại thời điểm bigbang số
lượng hạt và phản hạt bằng nhau .Song hiện nay thì chúng ta đang sống trong một
thế giới hạt chứ không phải phản hạt ? Điều gì đã xảy ra với các phản hạt ? Để
có sự mất quân bình đó đối xứng CP phải bị vi phạm, nguồn gốc của vi phạm đối
xứng CP có thể tìm thấy trong quark hay neutrino , hay trong các hạt Higgs ,
trong siêu đối xứng hoặc trong các
chiều dư ?
11 / Vấn đề chân không [ 13 ]
Chân
không không phải là một “ môi trường “ , trong đó không có gì cả , trái lại
chân không là một loại “ ether “ đặc biệt chứa những thăng giáng phần lớn là
của trường lượng tử điện từ . Chân không có thể chứa 3 khả năng đối với vật lý
hiện đại :
a . Vì chứa những thăng giáng điện từ , cho nên
có thể tính được năng lượng chân không theo phương pháp phân tích Fourier ( dao
động tử ) ; người ta thu được một năng lượng vô cực . Các nhà vật lý đã nghĩ
được cách làm hữu hạn đại lượng đó : các
dao động không thể xảy ra khi bước sóng ngắn hơn một trị số nhất định . Dẫu cắt
bước sóng tại trị số đó, người ta vẫn còn để lại cho chân không một năng lượng
khổng lồ .
Một
hiện tượng quan trọng xảy ra trong chân không là lực
Casimir và công nghệ nanô không thể không tính đến lực Casimir .
b . Như trên
chúng ta đã thấy năng
lượng chân không có
thể là năng lượng tối gây nên quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ
g . Cuối cùng là
một khả năng quan trọng , có thể đó là
nguồn gốc để giải quyết bài toán thống
nhất. Vào những năm 20 , Wolfgang
Pauli lúc ấy chỉ hơn 20 tuổi đã nhận định sâu sắc vấn đề chân không . Pauli đưa ra câu hỏi : thuyết
lượng tử đã gán cho chân không một năng lượng khổng lồ , như vậy theo lý thuyết
tương đối rộng của Einstein thì không – thời gian phải có độ cong rất lớn ,mà
thực tế không phải như vậy !
Nhàvật lý
người Nga Andrei Sakharov đã đưa ra một
cách nhìn táo bạo vào năm1967 : nguồn
gốc của hấp dẫn có thể là những thăng giáng của chân không với sự hiện diện của
vật chất, như vậy từ chân không ta có hấp dẫn và các tia sáng
sẽ bị cong vì hiện tượng khúc xạ của chân không ?
Tại sao
lại thống nhất các lực trước rồi mới dùng lý thuyết thống nhất để nghiên cứu
chân không , mà không làm ngược lại , khi hiểu biết được cấu trúc của chân
không thì chúng ta có thể xây dựng được lý thuyết thống nhất các lực ?
Một ngày
nào đó chúng ta sẽ hiểu được mối liên quan giữa không – thời gian , các thăng giáng lượng tử và hấp dẫn . Lúc ấy
chúng ta sẽ bước sang một trang mới của vật lý và câu hỏi của Wolfgang Pauli sẽ
có câu trả lời .
Mười một bài toán lớn nêu trên của vũ trụ lượng
tử trong thế kỷ 21 hy vọng được làm sáng
tỏ về mặt lý thuyết, cũng như thực nghiệm . Để tiến hành thực nghiệm người ta
phải có những thiết bị năng lượng cao , một sự hợp tác quốc tế rộng lớn .
Sau đây liệt kê các thiết bị
lớn,dự án chính và những vấn đề nghiên cứu tương ứng trong số 11vấn đề
trên[1].
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
THIẾT BỊ Chú thích về thiết
bị (các vấn đề nghiên cứu trong
số 11 vấn đề nêu trên )
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
1 / TEVATRON Máy va
chạm proton–antiproton 2 Tev , Fermilab ( 1 & 6 )
2 / LHC Máy va chạm
hadron14 Tev , Cern
( 1,2,3,&9 )
3 / LINEAR COLLIDER Máy gia tốc electron Tev , một dự án quốc
tế (
1,2,3,5,&7)
4 /
NUMI-MINOS Máy tiêm
neutrino , Soudan,Minnesota
( 8 )
5 /
V SUPERBEAM Máy gia tốc
neutrino, dự án mới
( 8 & 10 )
6 /
BABAR Thí
nghiệm vật chất –phản vật chất , Stanford (1 , 6 &
10 )
7 /
BTev
Thí nghiệm về B meson, Fermilab
( 1 , 6 & 10 )
8 /
JDEM
Joint Dark Energy Mission
( 2 & 7 )
9 /
RHIC
Máy va chạm ion nặng tương đối tính , Broohaven ( 9 )
10 / PROTON DECAY Dự án ngầm
dưới đất
( 5 )
§
Einstein
đã mất nhưng những ý tưởng của ông ( đặc biệt ý tưởngvề một lý
thuyết thống nhất , một “ lý thuyết của tất cả “ - TOE ) sẽ còn giúp chúng ta
trên con đường tìm hiểu vũ trụ . Cũng tồn tại nhiều lý thuyết dẫn đến những vi phạm lý thuyết Einstein ,như lý thuyết vòng lượng tử ( loop quantum theory ) dựa
trên cơ sở lượng tử hoá không thời gian. Theo lý thuyết vòng lượng tử, photon
với những năng lượng khác nhau sẽ chuyển động với những vận tốc khác nhau ,
điều này mâu thuẫn với lý thuyết Einstein!
Trong tương lai tới người ta
tập trung vào 11 vấn đề mà các nhà vật lý đã nêu trên đây theo dòng các ý tưởng của Einstein . Liệu 11 vấn đề đó có thể
được làm sáng tỏ trong vòng thế kỷ 21 này không ?
Tài liệu tham khảo :
[1] Quantum Universe , DOE/NSF ,HEPAP
[2] Scientific American , September 2004
[3] P.G. Bergmann , Introduction to the
theory of relativity
[4] Alastair I M Rae ,
Quantum Mechanics
[5] La Recherche 349 , Janvier
2002
[6] La Recherche 12/2004 ,Paul
Colas
[7] A.D. Tchernin , Uspekhi phys.nauk ,
11/2001
[8]
L.D.Landau,E.M.Liftchitz . Field theory
[9] Georgi Dvali , Scientific American 2/2004
[10] Science & Vie ,Novembre 2002 .
[11] Scientìic American ,May 2005
[12] Science & Vie , 03/2004.
[13] Science & Vie ,06/2003
* Viện Nănglượng Nguyên tử Việt nam
Tôi cũng vừa viết xong (!) cách đây vài hôm. Về cái Einstein gọi là 'Thuyết Trường Thống Nhất'. Mong được 'nối kết': https://www.facebook.com/suongbinhnguyen.ngan.12
Trả lờiXóa(Nhại theo Einstein: 'Big Bang, Lỗ Đen.., Lý thuyết dây, siêu dây.., mong TOE hãy tha thứ')