NGUYÊN LÝ ĐỘT SINH TRONG VẬT LÝ
Nguyên
lý đột sinh trong vật lý
Michel Bitbol
Michel
Bitbol
comme les
poupées russes (Thiên nhiên được tổ chức như những con búp bê Nga) của
tác giả Michel Bitbol , Trung tâm nghiên cứu nhận thức luận ứng dụng
Pháp (Centre de Recherche en épistémologie appliquée), đăng trên Tạp chí Les
Dossiers de la Recherche, số 43, tháng 5/ 2011 về nguyên lý đột sinh trong khoa học.
Theo Robert Laughlin, giải Nobel
vật lý năm 1998: đột sinh (emergence) là
nguyên lý cấu trúc vật lý theo đó xuất hiện những định luật mà ta không thể suy diễn từ những nguyên lý vật
lý cơ bản hơn. Quan điểm đột sinh của
Robert Laughlin được nhiều nhà khoa học
chia sẻ, tạo nên một nguyên
lý khoa học mới có khả năng làm lung lay
cơ sở vật lý hiện đại [1].
Nguyên
lý đột sinh khẳng định rằng những định luật của thiên nhiên đều độc lập với các
định luật điều khiển các quá trình ở lớp dưới.
Nguyên
lý đó dựa trên có sở : các hạt vốn có những
cách hành xử cá nhân rất ngẫu nhiên lại có một hành xử tập thể rất tất định
(xem hình 1). Quan điểm đó dẫn đến giả thuyết cho rằng mọi định luật đều là đột
sinh.
Hình1 .Các lớp tổ chức của vật chất: nếu xuất phát từ quy giản
luận thì mọi lớp tổ chức (pha khí, rắn hoặc lỏng, phân tử,nguyên tử, nucleon,
quark) đều có thể hiểu được từ mức ở dưới. Song một nucleon cấu thành bởi 3
quark lại có những tính chất mà quark không có nếu xét riêng từng quark. Tương
tự như vậy nhiều triệu phân tử nước làm thành một chất lỏng với nhiệt độ của
môi trường và không có các tính chất của
một phân tử riêng lẻ.
Đột sinh là quá trình biểu lộ những cấu trúc mới,
những tính chất mới trong một hệ phức hợp. Các tính chất đột sinh hiện ra khi hệ
phức hợp đạt đến một ngưỡng tổng hợp về
tổ chức và liên thông.
Một khoa học dựa trên nguyên lý đột
sinh sẽ đặt trọng tâm vào những hiện
tượng thuộc phạm vi khả năng lý thuyết và thực nghiệm của chúng
ta.
Hình 2 . Robert Betts Laughlin (sinh: 1/tháng
11/1950), Đại học Stanford, giải Nobel vật lý năm 1998 (cùng với Horst
L.Stormer & Daniel C.Tsui) về hiệu ứng Hall phân số lượng tử.
Hình 3 . Hình ảnh cấu của vũ trụ theo nguyên
lý đột sinh là con búp bê nhiều lớp của Nga, mỗi lớp là một con búp bê rỗng để có thể bỏ lồng con
búp bê này vào con búp bê lớn hơn tiếp theo.
B /
Quy giản luận (reductionism)
Hình 4 . Con vịt
rôbốt thiết kế bởi Jacques de
Vaucanson, thế kỷ XVIII để thể hiện quan
điểm “cơ túy-mécaniste” cho rằng sự sử dụng
nhiều linh kiện cơ học có thể thực hiện được mọi vật quan sát được trong
thiên nhiên.
Quy giản luận (reductionism-nhiểu tác giả còn dùng từ reductivism) là luận thuyết nhằm giải thích mọi hiện tượng trong
thiên nhiên bằng những quy luật cơ bản nằm ở lớp cơ sở. Ý tưởng quy giản luận
xuất phát từ Descartes (phần V tác phẩm
Discourses – 1637). Quy
giản luận chứa những luận thuyết tương
tự như vật lý luận (physicalism)
là luận thuyết quy mọi khoa học về vật lý. Hình
4 mô tả một rôbốt thực hiện tinh
thần quy giản luận.
Có thể nêu một ví dụ về lối tiếp cận
trong quy giản luận: mọi hiện tượng tâm lý sẽ được quy về một quá trình hoạt động của thần kinh hệ (neurophysiology),
hoạt động này lại được quy về một quá trình sinh hóa (biochemistry) rồi về một
quá trình hóa học và sau cùng quy quá trình hóa học này về một quá trình vật
lý.
Các luận thuyết đối ngược với quy
giản luận là các luận thuyết như đột sinh
(emergence) và tổng thể luận (holism-luận
thuyết cho rằng tổng thể lớn hơn tổng cộng các thành phần - Aristote).
C /
Thiên nhiên là một cái giếng không đáy?
Năm 2005 , Robert Laughlin, giải
Nobel 1998, công bố cuốn sách “Một vũ trụ khác-Un Univers different ” gây nên một một làn sóng tranh luận sôi nổi
trong giới khoa học. Trong cuốn sách nói trên, tác giả đưa ra quan điểm mọi
định luật về thiên nhiên đều là “đột sinh”. Các định luật ở một lớp trên là hệ
quả của một hành xử tập thể ở lớp ấy và
thực chất không phụ thuộc vào các định luật điều khiển thiên nhiên ở lớp dưới.
Nếu không quan niệm rằng số lớp là vô cùng thì phải mặc nhận tồn tại một lớp
đầu tiên mà các định luật của nó không thể đột
sinh từ một lớp dưới nữa! Như thế theo nguyên lý đột sinh ta có thể hình
dung thiên nhiên như một cái giếng không đáy.
Lý thuyết của Robert Laughlin có thể
xem là đối cực của quy giản luận. Như đã
nói trên theo quy giản luận, mọi đa dạng của thế giới có thể giải thích nhờ một
số những định luật cơ sở và một số nhỏ hữu hạn
những thực thể cơ bản. Nhà vật lý người Pháp Jean Perrin đã tóm tắt mục
tiêu của quy giản luận như sau: giải
thích cái phức tạp hữu hình bằng cái đơn giản vô hình” và xem sự đơn giản
đầu tiên là dấu hiệu của sự thật.
Quy giản luận bắt đầu từ lý thuyết
nguyên tử Hy lạp cổ và cũng thành công trong việc giải thích các chất khí ,
chất lỏng nhờ luận điểm cho rằng các chất đó được cấu thành bởi những hạt đứng
cách xa nhau ít nhiều trong chân không. Song quy giản luận cũng chỉ dừng đến đó
và không phát triển xa hơn được nữa.
Mãi đến thế kỷ XIX người ta mới quan
niệm được nhiệt độ và áp suất là hệ quả hành xử thống kê của một tập lớn
các phân tử dẫu rằng mỗi phân tử tuân theo các định luật cơ học cổ điển.
Hơn nữa tồn tại
một khoảng cách lớn giữa quy giản luận dựa trên lý thuyết nguyên tử và sự hình
thành thế giới của sự sống. Sự sống có những định luật riêng của nó không suy
được từ lý thuyết nguyên tử (một trong những luận thuyết theo quan điểm đó là
luận thuyết về sức sống-vitalism- cho rằng sự sống tuân theo
những quy luật riêng không thể chỉ quy
về các quá trình hóa học và vật lý được – Paul Joseph Barthez,1806).
Luận thuyết này thực chất là
biến hình của nguyên lý đột sinh áp dụng
vào sự sống. Quả thật như vậy nếu dựa trên một cơ sở hoa-lý của các nguyên tử
cho sinh học thì các nhà khoa học Anh đã chỉ ra rằng những hệ phức tạp nối các
thành phần của cơ sở đó có thể làm đột sinh những định luật chưa biết. Đó là
các định luật điều khiển sự sống cũng như các định luật vĩ mô trung gian điều
khiển các chất lỏng và chất rắn.
Người ta chỉ
giữ lại được từ quy giản luận quan điểm
cho rằng trong thế giới tồn tại những vật thể vi mô tuân theo những định luật
nhất định.
Theo quan điểm
đột sinh, khi nói rằng thiên nhiên là
một cái giếng không đáy sâu đến vô cùng, người ta cũng muốn hàm ẩn thêm hai ý
tưởng sau:
a .
Những nghiên cứu vật lý không có
điểm dừng xác định trước được,
b . Mọi
nghiên cứu ở một lớp không thể tách rời với trình độ, khả năng tính toán và
thực nghiệm của chúng ta.
a / Các
định luật đột sinh không thể suy từ các định luật của lớp cơ bản. Như thế các
định luật đột sinh ở một lớp trên là độc lập với các định luật ở lớp dưới và có
một tính tự trị (autonomie) nào đó.
b / Nếu
chỉ vì sự hạn chế của toán
học mà chúng ta không thể suy các
định luật đột sinh từ những định luật cơ bản (kể cả sử dụng máy tính) thì các
định luật mà chúng ta gọi là đột sinh chẳng qua chỉ thuộc một tập con của các
định luật cơ bản.
Sau đây chúng
ta sẽ thấy dường như khả năng thứ nhất là gần với sự thật của vật lý học.
Cuối năm 1920,
thuyết lượng tử cho phép người ta tin rằng không những các định luật
nhiệt động học mà cả cơ học cổ điển cũng đột sinh từ cơ sở các định luật lượng
tử vốn là một lý thuyết không tất định (indéterminisme) vi mô. Từ đó một kết
luận: các định luật đột sinh cũng dựa trên cơ sở của một số định luật cơ bản,
song thể hiện ra dưới nhiều hình thức rất khác nhau. Điều này làm thành một hố
ngăn cách giữa các lớp vì sự hiểu biết các định luật đột sinh không cho phép
tái lập các định luật cơ bản.
Hình5 . Mô phỏng các hệ phức hợp. Sự phát
triển của tế bào automat dựa trên một quy tắc đơn giản: mỗi tế bào hình lập
phương sẽ được bôi màu nếu ở bước lặp trước 2 trong số 26 tế bào lân cận (tại
các mặt,các cạnh và các đỉnh) đều có màu. Phương thức này cho phép tìm được một
số lớn các lối hành xử quan sát được trong thiên nhiên. Song những quy tắc này
phải chăng là những định luật cơ bản?
Như vậy các định luật đột sinh
dường như bị tách khỏi lớp cơ sở giả định. Các định luật
đột sinh là bền đối với các biến thiên đáng kể của cơ sở và người ta nói rằng
chúng được “bảo vệ” đối với các biến thiên bất định của cơ sở. Quan điểm bảo vệ
các định luật đột sinh đối với các thay đổi của cơ sở là một điều quan trọng.
Qua những điều vừa trình bày chúng
ta thấy các định luật đột sinh bị tách rời
khỏi các định luật cơ sở mà chúng ta có thể hình dung đến. Các định luật
đột sinh ổn định đối với các giả định khác nhau về phương án các định
luật cơ sở. Người ta nói rằng chúng được bảo vệ đối với tính đa dạng của các phương án cơ sở giả định. Đối với
nhiều nhà khoa học theo lý thuyết đột sinh thì thậm chí các định luật mà chúng
ta xem là cơ bản như các định luật hấp dẫn, điện từ cũng là những định luật đột
sinh.
Song các định
luật ở lớp đột sinh và ở lớp dưới có thể có sự tương tự hình thức (analogie
formelle). Một số định luật của môi trường
đông đặc (mà chúng ta xem là đột sinh) tương tự với các định luật của
vật chất cơ bản (mà chúng ta xem là cơ sở). Ví dụ phonon (trong môi trường đông đặc) tương tự như photon (trong chân
không, môi trường cơ bản), các lỗ trống trong các giải phổ bán dẫn tương tự với
các positron trong lý thuyết Dirac. Vậy có chăng một sự “đồng dạng” các định
luật ở các lớp? hay nói cách khác có chăng một nguyên tắc thống nhất để thiết
lập các định luật ở các lớp khác nhau?
G / Lý thuyết trường lượng tử
Lý thuyết
trường lượng tử (LTTLT) là lý thuyết kết hợp lý thuyết lượng tử và lý thuyết
tương đối (hẹp). LTTLT xây dựng trên tương tác vi mô của các hạt cơ bản và cho những
kết quả quan sát được với độ chính xác cao đáng ngạc nhiên (ví dụ dịch chuyển
Lamb [3] quan sát được năm 1947-48).
Vậy đây có phải
là một lý thuyết thuộc quy giản luận
và là một ví dụ chống lại quan điểm
đột sinh?
Song đi sâu vào
LTTLT người ta thấy một lỗ hổng lớn: đó là sự tồn tại những đại lượng lớn vô
cùng phát sinh trong quá trình tính toán. Muốn thu được những kết quả so sánh
được với thực nghiệm người ta phải tìm cách loại bỏ những đại lượng vô cùng đó.
Thuật toán này được gọi là “tái chuẩn hóa”. Nội dung
thực chất là cần phải cắt ngưỡng năng
lượng tại một trị số nào đó. Như vậy dưới ngưỡng năng lượng đó thì LTTLT đúng
còn trên ngưỡng năng lượng đó thì chưa có lý thuyết để mô tả hiện tượng.
Vậy vùng năng
lượng thấp dưới ngưỡng thuộc về một lớp cấu trúc đột sinh. Dưới lớp này là vùng
năng lượng cao hơn ngưỡng nói trên.
Như vậy LTTLT với thuật tái chuẩn hóa
phải xem là một lý thuyết đột sinh. Trong những năm gần đây có một sự thay đổi trong thái
độ của các nhà vật lý đối với vật lý các hạt cơ bản, dẫn đến việc hiểu các lý
thuyết trường lượng tử như là những lý thuyết trường hiệu dụng (EFT-Effective
Field Theories).Trong LTTLT tái chuẩn hóa người ta thực chất đã làm việc với
những trường hiệu dụng.
Hiện tại lý
thuyết siêu dây có tham vọng tìm một lý thuyết cho tất cả xuất phát từ một thực
thể cơ bản là một dây vi mô theo tinh thần quy
giản luận. Song tiếc rằng hiện nay
chưa có một cơ sở thực nghiệm để kiểm chứng được lý thuyết dây.
Nhiều tác giả
khác ngã theo lý thuyết đột sinh: không có định luật nào là cơ bản có chỉ có
những định luật đột sinh. Lý thuyết này
là một thách thức quan trọng đối với vật lý học hiện đại và đối với triết học.
Có thể chứng minh rằng các nguyên tử kết thành tinh thể vì chúng tương tác với nhau ở mức vi mô. Song không thể chứng minh vì sao sự kết thành đó lại hoàn chỉnh mà sự sắp xếp hoàn chỉnh các nguyên tử lại rất quan trọng, vì không hoàn chỉnh thì tinh thể không bền cứng được. Điều này chứng tỏ quy giản luận không hoạt động ngoài một phạm vi nhất định.
Ngay cả trong
vật lý các hạt cơ bản vốn là một lĩnh vực mang tính quy giản luận cao thì cách
tiếp cận suy cho cùng cũng mang tính hiện tượng luận. Trong hóa học nếu ta sử
dụng thuần túy cơ học lượng tử thì ta không tính được mọi kết quả các phản ứng
(ngoại trừ một số trường hợp rất đơn giản).
Robert Laughlin
đoạt giải Nobel năm 1998 về hiệu ứng Hall phân số
lượng tử (các electron trong vật liệu có thể có điện tích phân số, không
nguyên) đã phát biểu rằng chính nguyên lý đột sinh đã giúp ông đi đúng
hướng khi sử dụng ý tưởng về chất lỏng lượng tử, một ý tưởng có tính đột sinh
và nhờ đó tìm ra hiệu ứng Hall nói trên.
Đặc biệt trong
sinh học người ta sử dụng rộng rãi tiếp cận đột sinh. Nhiều nhà vật lý lầm
tưởng rằng họ có thể suy diễn sinh học bằng những phương pháp quy giản luận,
cho nên các nhà vật lý thường là những nhà sinh học tồi (pietre biologiste).
Lý thuyết
Bigbang thực chất là một ý tưởng mang tính đột sinh. Người ta không thể suy
Bigbang từ những phương trình. Bigbang
có thể đã tạo ra nhiều vũ trụ song song, ở đấy các hằng số vật lý có thể khác
nhau dẫn đến những định luật khác nhau, cho nên vũ trụ không phải là hệ quả của một quy trình tất
định mà là hệ quả của nhiều yếu tố mang
tính ngẫu hợp (contingent) liên quan đến quá trình tự tổ chức
(auto-organisation) của vật chất.
Nhiều hiện
tượng có bản chất xa nhau có thể có cùng một cơ chế. Hãy lấy hiện tượng từ hóa (aimantation) và hiện tượng dịch bệnh. Trong hiện tượng từ hóa các
nguyên tử gần nhau tương tác với nhau và dẫn đến một trật tự từ hóa trong một khoảng cách nào đó.
Song đến một lúc quá trình chuyển pha (loại hai) phát sinh hay nói cách khác
đột sinh, tại đó hàm liên kết trở nên rất
lớn và hệ “mất ký ức “ về cấu trúc vi mô của mình để biểu hiện một liên kết vĩ
mô ở khoảng cách lớn (the system near the second order phase transition “loses
memory” of its microscopic structure and
begins to display new long-range macroscopic correlations) [4]. Trong dịch bệnh một số người tiếp xúc gần với
con bệnh sẽ bị lây nhiễm sau đó truyền bệnh cho một số ngưòi khác trong một
phạm vi nhất định và đến một lúc thật sự
dịch bệnh mới bùng phát tương ứng với quá trình chuyển pha (loại hai) trong từ hóa của vật lý.
Như vậy có những
tính chất phổ quát trong sự phát sinh
những định luật đột sinh ở nhiều hiện tượng khác nhau không cùng một bản chất.
I / Kết
luận
Nguyên lý đột sinh tỏ ra có nhiều ưu thế trong vật
lý khi người ta bắt đầu nhận thức được cấu trúc nhiều lớp của vật lý. Song liệu
có phải vì toán học không bao giờ đủ mạnh
mà chúng ta không thể suy các định luật đột sinh từ những định luật cơ
bản (kể cả sử dụng máy tính)? hay chính đây là bản chất sâu xa của nguyên lý đột sinh?
Tài liệu tham khảo và chú thích
[1] Michel Bitbol, Robert Laughlin, Cécile
Michaut, La Recherche số 405, tháng hai/2007
[2] Stephen Wolfram, A new kind of Science:
NKS | ON LINE, 2007
[3]
Dịch
chuyển Lamb là sự khác nhau giữa hai mức năng lượng đặc biệt do electron tương tác với chân không chỉ
tính được nhờ LTTLT.
[4] Rajesh R. Parwani, usprrp@nus.edu.sg
![]() |
Nhận xét
Đăng nhận xét